Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật XXXI TN – năm B

30 Tháng Mười 20212:00 CH(Xem: 7306)

Các bài chú giải và chia sẻ Tin Mừng

Chúa Nhật XXXI Thường Niên – Năm B

Lời Chúa: Đnl 6, 2-6; Dt 7, 23-28; Mc 12, 28b-34

phuc am


A. BẢN VĂN (Mc 12, 28b-34):

Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”.

Luật sĩ thưa Ngài: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”.

Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI

Bài 1. Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: ĐIỀU RĂN ĐỨNG ĐẦU

1- Ngữ cảnh

Giống như trong Mc 2,1–3,6, phân đoạn 11,27–12,37 này có năm truyện kể lại những tranh luận giữa Đức Giêsu với các đối thủ tại Giêrusalem: quyền của Đức Giêsu (11,27-33); dụ ngôn về vườn nho (12,1-12); nộp thuế cho Xêda (12,13-17); kẻ chết sống lại (12,18-27) và điều răn đứng đầu (12,28-34). Còn câu hỏi của Đức Giêsu về con vua Đavít (12,35-37) không còn là một tranh luận nữa, mà là một vấn đề Người nêu ra để gián tiếp giới thiệu về bản thân Ngài.

Cuộc tranh luận thứ tư liên quan đến điều răn đứng đầu trong số 613 điều (trong đó có 365 điều cấm và 248 điều buộc làm) thuộc luật Cựu Ước. Đây là một đề tài thường được đề nghị cho những vị thầy Do Thái lỗi lạc.

2- Bố cục

Bản văn này có thể phân chia thành bốn đơn vị:

1) Mở đầu: vị kinh sư đến gặp Đức Giêsu (12,28);

2) Đối thoại về điều răn đứng đầu (12,28c-31);

3) Lời bình về điều răn đứng đầu (12,32-33);

4) Kết: Đức Giêsu khen vị kinh sư (12,34).

3- Vài điểm chú giải

- điều răn nào đứng đầu (28): Trong Mt 22,35, câu hỏi là “điều răn nào lớn nhất?”. Vì viết cho người ngoại, Mc đã sửa lại câu hỏi theo nghĩa “ưu tiên”.

Dường như nền văn chương Do Thái coi tội thờ ngẫu tượng, tội loạn luân và tội sát nhân là ba tội nặng nhất. Do Thái giáo chưa nhận ra được tính ưu tiên của điều răn yêu thương, bởi vì toàn thể đời sống thiêng liêng của người Do Thái bị ám ảnh bởi một khoa giải nghi vị luật và hết sức chi li. Thật ra, vào khoảng 20 năm trước Đức Giêsu, kinh sư Hillel đã dạy về tình yêu đối với tha nhân như sau: “Điều gì con không thích, thì đừng làm cho tha nhân; đó là tất cả Lề Luật. Phần còn lại là phần giải thích”. Phải nói là Đức Giêsu đã lấy lại y nguyên công thức này (Mt 7,12). Nhưng linh đạo Do Thái giáo vẫn mang nặng dấu ấn của khuynh hướng khử ngoại (exclusivism): “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43). Khi hỏi về điều răn đứng đầu, vị kinh sư muốn biết về điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta phải làm trước mọi sự và làm tận căn.

- Nguơi phải yêu mến Đức Chúa … (29): Đức Giêsu đã trích Đnl 6,4-5, là một trong ba bản văn được những người Do Thái mộ đạo đọc mỗi ngày 2 lần (Đnl 6,4-9; 11,13-21; Ds 15,37-41).

- lòng, linh hồn, trí khôn, sức lực (30): Đnl 6,5 nói đến lòng/tim, linh hồn sức lực (LXX: kardia, psychê, dynamis). Mc lại nêu ra bốn từ lòng/tim (kardia), linh hồn (psychê), trí khôn (dianoia = sức mạnh của trí tuệ; thay vì dynamis) và sức lực (ischys = tất cả sức mạnh của tâm hồn). “Tim” là khả năng ý chí; “linh hồn” là khả năng trí thức; ngoài ra “sức lực” được nhắc đến tổng quát. Thật ra, đây không phải là một danh mục kể ra các năng khiếu khác nhau rõ rệt, hoặc kể rốt ráo; danh mục này chỉ muốn nhấn mạnh rằng toàn thể con người phải yêu mến Thiên Chúa với mọi tài nguyên có thể có được: chúng ta lưu ý là đi với mỗi năng khiếu là tính từ “tất cả” (holês; “hết; trọn”). Yêu mến vị Thiên Chúa duy nhất với tất cả sức mạnh và khả năng ban cho con người là tổng hợp tối hậu về ý muốn của Thiên Chúa.

- Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu mến người thân cận … (31): Được hỏi về điều răn đứng đầu, Đức Giêsu thêm “điều răn thứ hai”. Hai điều răn được liên kết với nhau bởi động từ “yêu” (agapêsais). Trong TM Mc, điều răn thứ hai này không được đồng hóa với điều răn thứ nhất như trong Mt 22,39 (homoia autê), nhưng việc đăt hai điều răn này ở bên nhau chuẩn bị cho việc lượng giá giống nhau. Đây là câu trích Lv 19,18. Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận là như một giải thích cô đọng hai bia đá Mười Điều Răn.

- Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng… Yêu mến Thiên Chúa … yêu người thân cận… (32-33): Vị kinh sư diễn tả sự đồng ý với Đức Giêsu bằng hai công thức hoàn toàn mang màu sắc Hy Lạp (“hay lắm”, kalôs; “rất đúng” [= thể theo sự thật], ep’ alêtheias). Rồi ông diễn tả cách khác và tóm tắt câu trả lời của Đức Giêsu. Khi làm như thế, ông cũng nhấn mạnh trên hết tính duy nhất của Thiên Chúa (LXX Đnl 4,35; Xh 8,6; Is 45,21). Ông cũng tổng hợp tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân và diễn tả liên hệ đặc biệt giữa hai điều răn này còn mạnh mẽ hơn nữa.

- hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực (33): Ở trên, câu trích Đnl 6,5 đã xa bản văn Hy Lạp với nhóm bốn từ ; nay vị kinh sư lại trở lại với nhóm ba từ, nhưng cũng khác bản Hy Lạp (“lòng”: kardia; “trí khôn”: synesis [thay thế psychê và dianoia ở c. 30), “sức lực”: ischys), qua đó khía cạnh trí tuệ vẫn được nêu bật.

- quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ (33): Lời của vị kinh sư khiến ta nghĩ đến Hs 6,6 và 1 Sm 15,22. Khi nhận định như vậy, vị kinh sư không khẳng định rằng nền phụng tự Đền Thờ đã bị triệt tiêu, nhưng đã bị tương đối hóa đi rất nhiều. Thật ra, trong Cựu Ước đã có những tư tưởng chuẩn bị cho việc phê bình nền phụng tự như thế: 1 Sm 15,22; Tv 51,20t; 40,7; Cn 21,3; đặc biệt với các ngôn sứ: Hs 6,6; x. Is 1,11. Nhưng ở đây, điều đáng nói là một nhà thần học Do Thái đã nhận định như thế tại Đền Thờ Giêrusalem (x. 11,27), nghĩa là ngay tại nơi dâng hy lễ.

- Ông không còn xa Nước Thiên Chúa (34): Vị kinh sư đã tỏ ra hiểu biết đúng đắn (nounechôs, “theo trí thông minh”, “biết theo lẽ phải”) điều gì là quan trọng trong luật Cựu Ước. Nhờ đó, ông đã ở gần Nước Thiên Chúa đang đến và ông đã sẵn sàng để đón tiếp Nước Thiên Chúa cách đúng đắn (x. 10,13-16).

4- Ý nghĩa của bản văn

* Mở đầu: vị kinh sư đến gặp Đức Giêsu (28)

Câu 28ab nối với phần trước khi nói rằng một kinh sư đã nghe “họ” (Đức Giêsu và nhóm Xađốc) tranh luận với nhau và ông này thấy Đức Giêsu đối đáp hay. Những gì ông đã nghe gây ấn tượng mạnh cho ông, bây giờ thúc đẩy ông đăt cho Đức Giêsu một câu hỏi, nhưng không phải để thử Người (như trong Mt 22,35). Câu hỏi liên hệ đến điều răn quan trọng nhất, nhưng được đặt theo kiểu một người ngoại muốn tòng giáo đăt ra cho hai vị trưởng trường kinh sư là Shammai và Hillel: Shammai từ chối trả lời, còn Hillel, đến từ Hải ngoại, sẵn sàng trả lời. Trong số 613 điều làm nên tôrah, các kinh sư phân biệt ra các điều dễ và điều khó, nhưng yêu cầu tuân giữ tất cả. Shammai từ chối tổng hợp Lề Luật vào một điều răn tối hậu. Một câu hỏi phát xuất từ huấn giáo của Do Thái giáo Hải ngoại đã được chuyển đến cho vị kinh sư Do Thái. Ông không hỏi điều răn nào đứng đầu trong Lề Luật (= lớn nhất, như Mt 22,36), nhưng điều răn nào đứng đầu trong mọi điều răn (Trong Lc 10,25, câu hỏi hoàn toàn khác). Ông muốn biết là người ta có thể chăng nhận ra được yếu tính của những gì làm nên thánh ý Thiên Chúa.

* Đối thoại về điều răn đứng đầu (29-31)

Đức Giêsu đã trả lời bằng cách nối kết Đnl 6,5 với Lv 19,18. Khi nhắc lại trọn vẹn câu trả lời của Đức Giêsu với giọng chuẩn nhận và bình giải bằng cách quy chiếu về các hy lễ, vị kinh sư chứng tỏ tất cả tầm quan trọng của câu trả lời của Đức Giêsu. Ở 12,30 (= Đnl 6,4t), Người khẳng định bốn phận đầu tiên và quan trọng nhất, đó là yêu mến Thiên Chúa hết sức lực có được. Chúng ta, với trọn vẹn bản thân, phải quay hướng về Người với lòng yêu thương cách cương quyết và trọn vẹn. Chúng ta không hướng về bất cứ quan niệm nào về Thiên Chúa, nhưng là về Thiên Chúa trong thực tại của Ngài. Vậy, Thiên Chúa là Đức Chúa duy nhất, nhưng Ngài đã tỏ mình ra trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô.

Đức Giêsu chỉ được hỏi về điều răn đứng đầu, nhưng sau điều răn thứ nhất, Người nói đến một điều răn thứ hai: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Tình yêu chúng ta có cho chính mình được đề ra như tiêu chuẩn để đánh giá tình yêu phải có đối với người thân cận. Yêu thương chính mình là chấp nhận bản thân, theo ý muốn của Thiên Chúa Tạo hóa. Tình yêu đối với người thân cận cũng phải có cùng một bản chất với tình yêu đối với chính bản thân ta.

* Lời bình về điều răn đứng đầu (32-33)

Khi bày tỏ quan điểm, vị kinh sư đã biểu đồng tình với Đức Giêsu. Nhưng ông đã diễn tả ý kiến như là một lời bình nhằm triển khai vấn đề bằng cách thêm vào một ý tương gán cho tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận một giá trị cao hơn mọi lễ toàn thiêu và các hy lễ đẫm máu. Bằng câu trả lời của mình, ông đã gián tiếp nhìn nhận lỗi của các đồng nghiệp, của nhóm Pharisêu và Hêrôđê.

* Kết: Đức Giêsu khen vị kinh sư (34)

Khi khen ngợi vị kinh sư, Đức Giêsu đã tỏ ra là vị Thầy có uy quyền và được quyền nhận định như thế. “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu”: Phải chăng Đức Giêsu muốn nói rằng vị kinh sư đã sống trong chiều hướng giáo huấn của Người, bởi vì trong TM Mc, Nước Thiên Chúa là một thực thể hiện tại, gắn liền với bản thân Đức Giêsu (x. 4,11)? Chúng ta hẳn là chờ đợi Đức Giêsu gọi ông đi theo Người. Nhưng ở đây, mối bận tâm là cho thấy quan niệm của Đức Giêsu và các mệnh đề căn bản của đức tin Do Thái hài hòa với nhau. Không hề có một trở ngại quan trọng nào ngăn cản người Do Thái gắn bó với Đức Giêsu.

+ Kết luận

Điều răn đứng đầu chính là điều quan trọng trong mọi trường hợp, điều mà chúng ta phải dấn thân theo với tất cả sức lực. Bởi vì chúng ta phải trả lẽ với Thiên Chúa và bởi vì Ngài sẽ quyết định về giá trị của đời sống chúng ta, cách thức đời sống chúng ta có thể nhận được một ý nghĩa thức sự, trường tồn, tùy thuộc câu trả lời cho câu hỏi về điều răn đứng đầu. Bởi vì điều răn này cho biết Thiên Chúa thực sự muốn chúng ta sống thế nào, chúng ta phải đi theo con đường nào để cho cuộc đời chúng ta có ý nghĩa, có chiều hướng cách tuyệt đối chắc chắn.

Đức Giêsu đã cho thấy điều quan trọng nhất là yêu thương. Vị kinh sư đã hiểu, và đã diễn tả sự hiểu biết đó chính xác bằng một lời bình luận.

5- Gợi ý suy niệm

1. Ai có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực? Chúng ta có hy vọng chu toàn được nhiệm vụ này chăng? Ai có thể nói rằng mình đã yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn như thế? Cách thức chúng ta cư xử với Thiên Chúa như thế nào? Lại không phải là chẳng mấy khi chúng ta nghĩ đến Ngài, chúng ta không có giờ cho Ngài, chúng ta cứ ở trong tình trạng bất ổn và ngờ vực sao? Với lại, yêu thương mà lại theo lệnh được và muốn yêu là yêu sao? Thật ra, với điều răn này, Đức Giêsu không nêu ra một công việc có thể làm ngay bằng một hành vi nào đó, nhưng nêu ra một bổn phận kéo dài suốt đời. Yêu mến Thiên Chúa trọn vẹn là mục tiêu của cuộc đời chúng ta.

2. Nếu chúng ta chỉ dâng các hy lễ, nếu chúng ta chỉ nói lên những công thức cầu nguyện, nếu chúng ta chỉ dâng những điều khác với bản thân chúng ta, và không hề có bản thân chúng ta dấn thân vào đó thực sự, chúng ta không yêu mến, và chúng ta đánh mất ý nghĩa/chiều hướng của đời sống chúng ta.

3. Tình yêu trước tiên không phải là một tình cảm, một cảm xúc của con người, nhưng là tất cả bản thân chúng ta hiến dâng lên Thiên Chúa cùng với các sức lực và khả năng. Yêu mến là ra khỏi tình trạng thụ động, trơ ì, lãnh đạm, tìm thoải mái riêng tư, hời hợt, ngờ vực, để hướng về Thiên Chúa cách năng động mạnh mẽ và cương quyết, với một sự quan tâm sâu xa, tha thiết, sống động. Yêu mến Thiên Chúa là vận dụng tất cả năng lực trí tuệ và ý chí để hiếu biết Ngài, gặp gỡ Ngài, đón tiếp Ngài trọn vẹn, để được Ngài nắm lấy và lấp đầy. Nói cho cùng, yêu mến Thiên Chúa là luôn cố gắng mở ra với Ngài mãi.

4. “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en”. Đức Giêsu nhắc lại một lời kêu gọi của Cựu Ước, nhưng ở bên trong sứ điệp của Người, đây cũng là một lời mời gọi lắng nghe chính Người và hiến mình trọn vẹn cho Thiên Chúa, là Đấng đến tỏ mình ra cho ta nơi Đức Giêsu (x. 9,7). Đối với chúng ta, vì muốn yêu mến Thiên Chúa, trong khi đì tìm Thiên Chúa, để có thể yêu mến vị Thiên Chúa chân thật, chúng ta phải lắng nghe Đức Giêsu.

5. Nói rằng tình yêu đối với người thân cận cũng phải có cùng một bản chất với tình yêu đối với chính bản thân ta, có nghĩa là chúng ta chấp nhận người thân cận trong tính riêng tư độc đáo của họ, chúng ta nhìn nhận họ cũng được Thiên Chúa muốn có và tạo thành như chúng ta. Điều răn yêu thưong người thân cận có nền tảng và diễn tả ra là chúng ta – tôi và người thân cận – chúng ta đều mắc nợ tình yêu Thiên Chúa như nhau. Tình yêu đối với Thiên Chúa cũng là một tiếng “xin vâng” thưa với sự bố trí của Thiên Chúa.

6. Thật ra, điều răn này không có ý san bằng mọi người. Điều răn này phát xuất từ giả thiết là mọi khác biệt đều phụ thuộc; rằng mọi người về căn bản đều ở trên một bình diện như nhau, đều có tầm quan trọng, có giá trị, phẩm giá như nhau.

Bài 2. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux

GIỚI RĂN CAO TRỌNG NHẤT

Tiếp theo các cuộc tranh luận vừa mới xảy ra, đoạn Tin Mừng này có nhiều nét khác với những đoạn trước. Có một thầy thuộc giới Kinh sư đến với Chúa Giêsu (c.28a). Và Maccô cho thấy ngay rằng Chúa Giêsu tỏ ra ưu ái ông. Một Kinh sư mà nêu ra một câu hỏi như vậy kể cũng lạ (c.28b). chắc chắn ông ta phải thông hiểu rành rẽ về Kinh Thánh. Đó là lãnh vực chuyên môn của ông mà! Nhưng vào thời bấy giờ, các Kinh sư thường sôi nổi tranh luận xem giới luật này hay giới luật nọ quan trọng hơn. Họ đã liệt kê được tới 630 giới luật của Cựu Ước: Cả một cánh rừng mịt mù đối với dân Do Thái. Nhóm Biệt phái, bao giờ cũng khắt khe về luật lệ, đã rút ra một nền luân lý quá ư tỉ mỉ, phải mất công phân biệt. Người ta có thể chờ đợi Chúa Giêsu sẽ dựa vào 10 điều răn để trả lời (x.Xh 20,1-17). Nhưng không phải vậy, Ngài lại đọc những lời đầu tiên của kinh cầu nguyện Do Thái giáo (tựa như kinh Lạy Cha) (c.29a). Đó là kinh Shema Israel (Hỡi Israel, hãy lắng nghe) (Đnl 6,4-5). Đó là một kinh tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, hết thảy mọi người đều phải tận lực yêu mến Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đây. Ngài liên kết giới răn thứ nhất với giới răn thứ hai (c.31a) là phải yêu mến anh em (Lv 19,18). Trong văn chương Do Thái hồi ấy, người ta thường thấy thủ pháp nối kết như thế. Nhưng ở đây Chúa Giêsu quả là một bậc thầy như thế. Nhưng ở đây Chúa Giêsu quả là một bậc thầy tuyệt diệu: Ngài nối kết tình yêu Thiên Chúa với tình yêu anh em, và hợp thành một giới răn duy nhất. Để nêu lên tính duy nhất căn bản đó, Maccô đã không ngần ngại dùng lẫn lộn số ít với số nhiều: “Không có giới răn nào quan trọng hơn những giới răn đó” (c.31b).

Câu trả lời của Chúa Giêsu lập tức thuyết phục được người nghe hoàn toàn. Ở câu 32, người này thực ra chỉ biết lặp lại hai câu Thánh Kinh Chúa Giêsu đã trích dẫn, từ ngữ có vẻ sát với thực tế hơn. Ông ta nhấn mạnh thêm khía cạnh độc tôn của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Đấng duy nhất, và chỉ mình Ngài, không có ai khác” (Dt 4,35). Rồi ông kết luận rằng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân phải được coi trọng hơn các hiến tế dâng cúng của Do Thái giáo (c.33). Điều này rất phù hợp với ý tưởng của các tiên tri rằng: Chúa phán: “Ta muốn tình yêu chứ không phải lễ vật hy tế” (Hs 6,6). Giới Kinh sư chiếm một vị trí quan trọng trong khu vực đền thánh (từ 11-27). Chúa Giêsu thấy rõ điều đó nên Ngài mới nói: “Ông đã phán đoán khôn ngoan” rồi khái niệm (điều hiếm hoi đối với Chúa) rằng “ông không còn xa Nước Thiên Chúa ” (c.34a). người ta có thể hầu chắc rằng ngay trong giới Kinh sư căm ghét Chúa Giêsu từ thuở đầu (2,6; 3,22 v.v…) thì cũng có những kẻ hướng tìm nguồn sáng. Tóm lại Maccô đã biến cuộc gặp gỡ này thành một khoảnh khắc hạnh phúc. Theo ông trái hẳn với Matthêu (22,34-40) và Luca (10,25-28) –thì không còn một cuộc đối thoại nào theo kiểu vừa nói nữa.

Ẩn sau các câu hỏi đáp này, chính là một cuộc đối thoại sâu xa giữa Chúa Giêsu với một người Biệt phái cởi mở đặc biệt, mà không hề có một hậu ý nào cả. Câu chót của đoạn văn có một ý nghĩa đặc biệt. Không còn ai dám hỏi Ngài nữa (c.34b), nghĩa là không còn thời gian thuận lợi để tranh cãi nữa.

Bài 3. Chú giải của Noel Quesson

Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi

Đức Giêsu bị chất vấn. Người được người ta hỏi han ngoài đường. Tôi có biết hỏi Đức Giêsu để xin Người cho ý kiến về những vấn đề quan trọng trong cuộc sống của tôi không?

Đoạn Tin Mừng Chúa nhật vừa qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã ở lại thành Giêrikhô với người mù dễ thương, tên Bác-ti-mê. Sau đó, Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem một cách vẻ vang (Mc 11,1-11). Hôm sau, theo Máccô kể lại Đức Giêsu vào Đền Thánh để đuổi những kẻ đã làm mất vai trò của Đền thánh là cầu nguyện “cho các quốc gia” (Mc 11,12-19). Hôm sau nữa,” Đức Giêsu trở lại Giêrusalem và trong dụ ngôn “cây vả bị khô héo”, Người đã nói “Con Người” đến tìm quả nhưng không thấy; Đền Thánh cũng như cây vả, sẽ bị tàn phá (Mc 11,20-25). Chúng ta đang chứng kiến những tuần cuối cùng của Đức Giêsu. Sự đối đầu giữa Người và chính quyền đã lên đến tột đỉnh. Theo Máccô, thì chính trong Đền thánh Giêrusalem giữa quảng đại quần chúng, trên chiếc sân rộng rãi linh thiêng làm thành một quảng trường có những hàng cột vây quanh, nơi những đám đông thường tụ họp, Đức Giêsu đã tranh luận, “bị tấn công”, “phản công”. Những cuộc tranh cãi dữ dội xảy ra. Giọng nói giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo bị khích động mỗi lúc càng lên cao.

Những đề tài nóng bỏng nhất được đề cập:

“Do quyền lực nào mà ông thi hành những việc ông đang làm” (Mc 11,27-33).

”Chủ vườn nho sẽ làm gì khi người làm vườn nho không xứng đáng với vai trò của mình” (Mc 12,1-12).

- Có phải đóng thuế cho quân đội đang chiếm đóng hay không? (Mc 12,13-17).

- “Số phận của những người chết bên kia thế giới như thế nào?” (Mc 12,18-27).

Chính trong bối cảnh này mà một kinh sư thuộc nhóm Pharisêu, vì đã thấy giá trị câu trả lời của Đức Giêsu về sự sống lại của những người chết (nhóm Xa-đốc, những kẻ đối nghịch với Đức Giêsu, vừa nhận được một bài học đích đáng!) tiến lại gần Đức Giêsu và tiếp tục hỏi Người.

Chúng ta có khuynh hướng “đóng khung” đời sống tôn giáo của mình trong vòng “riêng tư” trong việc “thờ phụng” không? Hay như Đức Giêsu, chúng ta có chấp nhận để đời sống tôn giáo của mình soi sáng mọi vấn đề của cuộc sống, phố xá, nghề nghiệp chính trị?

Điều răn nào đứng hàng đầu?

Ham mê tha thiết của Israel là luật, bộ Thorab. Trong những “trường dạy Đức tin” gọi là Yéshivot người ta thấy trẻ con, thanh niên, người lớn và cả người già đã dành nhiều giờ để “nghiên cứu học hỏi”. Kinh thánh, và những lời chú giải trong sách Talmud. Những kinh sư thời Đức Giêsu, ngày nay tự gọi là các giáo trưởng Do Thái, là những chuyên gia về môn này và người ta thường đến hỏi họ về cách giải nghĩa một điều luật, xin một lời khuyên tinh thần, một luật sống rút ra từ lời Chúa, gọi là Thorah. Vì trong những trường Yềshivot, người ta thảo luận, người ta “chia sẻ” như ngày nay chúng ta thường nói vậy: Mỗi ngày Sa-bát là một ngày dài cầu nguyện, học hỏi theo nhóm, trong đó người ta cùng nhau say mê tìm hiểu một cách hiểu sâu sắc nhất những “giới răn” của Thiên Chúa, để có thể trung thành tuân giữ các giới răn đó một cách tỉ mỉ hơn. Sống trong môi trường văn hóa của dân tộc mình, Đức Giêsu cũng có niềm ham mê đó đối với Luật. Người đã thuộc lòng Luật. Người đã đọc đi đọc lại Luật cùng với những người khác, từ thuở còn nhỏ. Người đã thảo luận nhiều về Luật. Chúng ta có khao khát đọc Kinh thánh không? Trong một tuần, chúng ta đã dành bao nhiêu thời giờ để “nghiên cứu” một cách nghiêm chỉnh, và cầu nguyện với Lời Chúa? Chúng ta có thảo luận về Lời Chúa Với những người khác, đẽ soi sáng lẫn nhau không?

Câu hỏi mà vị kinh sư đặt ra, là một câu hỏi cổ điển trong trường Yéshivot. Người ta đã trích ra được 613 điều răn của Chúa từ trong Kinh thánh: 365 điều cấm đoán và 248 điều răn tích cực. Chúng ta đừng cười? Sự trung thành tuân giữ và những chi tiết nhỏ nhất, đó là một bằng chứng của tình yêu. Ai yêu mến sẽ hiểu biết. Những người Do Thái cũng đủ thông minh để nhận thức về tầm quan trọng tương đối của những lời răn khác nhau này. Họ đã tìm thấy trong Kinh thánh những yếu tố để đáp ứng. Đối với vua Đa-vít sách luật Thorah tóm lại 11 qui định chính yếu (Tv 15). Đối với ngôn sứ Isaia là 6 (Is 33,15). Và đối với Kha-ba-cúc là một (Kb 2,4) Rabbi Hillel thì tóm lại tất cả bộ luật trong một câu châm ngôn duy nhất: “Những gì ngươi không thích, chớ làm cho đồng loại của ngươi” Rabbi Akiba hầu như cùng thời với Đức Giêsu, cũng tập trung điều cốt yếu của Luật vào tình yêu thương đồng loại.

Còn Ngài, hỡi Rabbi Giêsu, Ngài nghĩ sao Điều răn trọng nhất là điều răn nào?

Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng hàng đầu là: nghe đây, hỡi Israel. Đức Chúa, Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất”.

”Phải phụng sự Chúa trước hết”. Đối với Đức Giêsu, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa, còn tôi? Tôi dành ưu tiên cho ai? Tôi có đặt Thiên Chúa trên hết trong đời tôi không?

Phúc thay những kẻ biết lắng nghe Lời Hằng Sống!

“Hỡi Ít-ra-en hãy lắng nghe” Đó là một nguồn sống thiêng liêng của Đức Giêsu. Người sống đúng như dân tộc mình, một dân khát khao Lời Chúa, biết “lắng nghe”, và để cho Thiên Chúa giáo huấn.

Điều Chúa trích dẫn trên đây là kinh “Shema” Israel (Đnl 6,4-5).

Đó là kinh cầu nguyện hàng ngày của mọi người Do Thái sùng đạo.

Khẳng định chính yếu của đức tin Do Thái là độc thân từ lâu đã trở nên di sản chung của Ít-ra-en, của các Kitô hữu, của người Hồi giáo.

Rất tiếc là những dịch giả Pháp đã không trung thành với bản văn Hy Lạp của Maccô, và với bản văn Do Thái. Maccô đã không nói: “Thiên Chúa là Chúa duy nhất”. Ong nói thật đơn giản nhưng rất mạnh: “Thiên Chúa là một”. Những sách kinh thánh Do Thái thì dịch: “Đấng hằng hữu là một” Sắc thái khác biệt nhau. Chữ “một” có một nghĩa đầy đủ hơn là chữ “duy nhất”. Các bạn có cảm thấy sự khác biệt không? Không có gì khác hơn là Thiên Chúa! Tất cả những gì khác chỉ hiện hữu nhờ Người. Người hoàn toàn “hợp nhất”. Người sở hữu chính bản thể của Người, trong khi bản thể chúng ta luôn “lưu chảy”, làm tan biến chúng ta. Đấng vĩnh hằng là một? Đó là câu trả lời đầu tiên của Đức Giêsu, khi người ta hỏi Người xem điều gì là quan trọng nhất đối với Người. Qua lời nói trên miệng Người, ta thấy Luật cũ đang có một sức sống mới.

Người phải yêu mến Đức Chúa. Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí, hết sức lực Người?

Thiên Chúa thật vĩ đại! Không phải bỗng nhiên mà chúng ta lại nghĩ đến việc kính yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa trong triết học và trong các tôn giáo khác, đòi hỏi thái độ tôn thờ, kính sợ Thánh Thiêng, vâng phục nhiều hơn. Còn đối với Israel cũng như đối với Chúa Giêsu, điều mà Thiên Chúa chờ đợi ở chúng ta, đó là tình yêu. Đặc điểm của Thánh kinh, đó là làm cho con người trở nên kẻ chung phần yêu thương trong giao ước tình yêu. Chính Thiên Chúa đã cho con người khả năng đó bằng cách tạo con người. “Giống như Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).

Tôi có yêu Thiên Chúa không? Không nên vội trả lời là có Chúng ta hãy khiêm tốn khi xét đoán kẻ khác. Bạn làm gì cho “Đấng mà bạn yêu mến”, nếu không phải là yêu mến Người? Có thật là bạn thương yêu Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức” không? Sự lặp đi lặp lại trên đây rõ ràng là muốn diễn tả trọn vền cường độ tình yêu đòi phải huy động và đầu tư tất cả khả năng và sinh lợi của chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho tình yêu Chúa thiêu đốt con toàn diện từ đầu đến chân, từ tinh thần đến thân xác, từ sáng đến tối, từ lúc trẻ đến lúc già, từ đời sống thầm kín nhất của con đến những trách vụ tập thể bên ngoài.

Điều răn thứ hai là…

Vâng, ở đây chúng ta biết rõ Đức Giêsu hơn, kinh sư chỉ hỏi có một điều răn. Không còn đợi người này hỏi thêm. Đức Giêsu, theo thói quen của Người, đã đi xa hơn. Chúng ta chớ quên nhtlng gì vừa nghe Người nói. Điều người sắp nói đây cũng rất quan trọng, những đứng ở vị trí thứ nhì: Thiên Chúa phải là trước hết.

Ngươi phải thương yêu người thân cận như chính mình.

Cần phải phân biệt rõ hai điều răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai điều răn này làm một, như thế “yêu Thiên Chúa” là đủ, hay “thương yêu anh em” cũng đủ. Điều răn thứ hai không thể thay cho điều răn thứ nhất được. Nếu, ta tục hóa điều răn thứ nhất, thì chúng ta nhạo báng Đức Giêsu, biến Chúa thành một nhà giảng thuyết xã hội, một luân lý gia về tình huynh đệ. Đã có rất nhiều vĩ nhân nói về vấn đề này rồi!

Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.

Đây là một tư tưởng rất tinh tế. Chúng ta hãy để ý chữ “điều răn” trước dùng ở số ít, như là chỉ có một? Nhưng chữ sau ở số nhiều, vì có hai điều và quan trọng như nhau.

Ông kinh sư nói với Đức Giêsu: Thưa Thầy, phải lắm, Thầy nói rất đúng, Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ta không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ. Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu.

“Nước Thiên Chúa” đã được chuẩn bị từ lâu qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, trong nền văn hóa và trong sinh hoạt đạo đức của dân Israel, giờ đây đã đến, đó là chính Đức Giêsu.

Người kinh sư Do Thái này sẽ thực hiện một bước cuối cùng chăng. “Trong vài ngày nữa, Đức Giêsu chỉ cần thêm hai chữ “như Ta” để cho các điều răn yêu thương có tầm cỡ vương quốc cũ và mới: “Hãy thương yêu như Ta đã yêu thương (Ga. 15,12). Trong lòng Đức Giêsu, luôn chứa chan tình yêu: tình yêu thứ hai là do tình yêu thứ nhất mà ra!

C. CÁC BÀI CHIA SẺ

Bài 1. Luật tối thượng
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Hôm nay, nhân một thắc mắc rất hợp lý, Chúa Giêsu đã giải thích cho họ những điểm then chốt trong lề luật. Đó là:

Thiên Chúa là độc nhất vô song. Đây là một chân lý nhưng nhiều khi bị lãng quên. Thiên Chúa là chủ tể muôn loài. Ngài là Đấng duy nhất cao cả. Không ai có thể sánh bằng. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống của muôn loài muôn vật. Ngài là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.

Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Tuy nhiên Chúa là chúa tể mọi loài. Quyền uy vô song tuyệt đối. Nhưng Ngài là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Ngài ban cho ta sự sống. Ngài nhận ta làm con của Ngài. Ngài cai quản vũ trụ không bằng quyền uy nhưng bằng tình thương. Ngài là người cha luôn yêu thương con cái. Ngài mong muốn ta đáp lại bằng tình yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa không những là điều công bằng và hợp tình hợp lý, mà còn đem lại cho ta sự sống và hạnh phúc. Xa lìa Thiên Chúa đưa ta đến diệt vong vì mất sự sống và mất hạnh phúc. Nhưng con người yếu hèn, lại bị ma quỉ cám dỗ, nên thường lãng quên Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa và phản bội tình yêu của Ngài.

Yêu tha nhân như chính mình. Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.

Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng tình yêu là quan trọng nhất. Tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười điều răn: Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy.

Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Như lời Chúa mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.

Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn giúp ta xây dựng một thế giới mới chan chứa tình người. Thế giới còn chiến tranh, xã hội còn nhiều bất công vì con người chưa tuân giữ luật Chúa. Nếu mọi người biết yêu mến Chúa và yêu mến nhau, thế giới sẽ tươi đẹp, cuộc sống sẽ hạnh phúc.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa.

Bài 2. Mến Chúa, yêu người
Trầm Thiên Thu

Luật Chúa tóm gọn trong 2 điều: “Mến Chúa, yêu người”. Tuy hai điều, bốn chữ (tiếng Việt), nhưng cũng chỉ là một: “Yêu”. Nghe chừng rất đơn giản, và nghe quá quen tai, thế mà sao khó thể hiện quá!

Vâng, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.

Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Rất thực tế. Yêu thì phải thật, chứ không thể yêu ảo. Thánh nhân tái xác định: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21). Rất hợp lý, rất lô-gích.

Thật ra Chúa Giêsu đã từng nói đến việc “mến Chúa, yêu người”, nói đúng ra là Ngài đang trách mỗi chúng ta, trách thật: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15:8-9; Mc 7:6-7). Cũng về ý “mến Chúa, yêu người”, một lần khác Chúa Giêsu xác định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21).

Những lời nói nghe chừng “nhẹ” mà “nặng” lắm, giản dị mà phức tạp, “xoa” mà “đau” quá! Khi nói đến “luật” thì luôn liên quan “quyền”, nói đến “quyền” thì thường liên quan sự “cạnh tranh”.

Thời Cựu ước, Vua Đariô (người Mê-đi, lên ngôi vua năm 62 tuổi) quyết định đặt trên vương quốc của ông 120 thống đốc để họ cai trị toàn vương quốc dưới quyền 3 tể tướng (tương đương “thủ tướng” ngày nay), trong đó có ông Đanien. Họ phải phúc trình mọi việc cho 3 vị này để nhà vua khỏi bị thiệt hại. Ông Đanien vượt hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có một thần khí siêu phàm, nên vua có ý định đặt ông đứng đầu cả vương quốc. Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách bắt lỗi ông Đanien về việc triều chính.

Người Việt có câu: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Con gà như thế thì con người cũng vậy, ai “gáy” hay thì người khác thường cảm thấy “xốn” mắt. Chúa Giêsu bị ghét và bị giết chết nhục nhã cũng chỉ vì Ngài là “cái gai” trong mắt người khác. Người ghét không ai xa lạ là chính những người thât thiết nhất của mình: “Ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình” (Mt 13:57; Mc 6:4; Lc 4:24; Ga 4:44). Quá phũ phàng! Đời là thế! Thật vậy, chỉ có người giỏi mới khả dĩ công nhận tài năng của người giỏi.

Ông Đanien “trổi vượt” hơn người khác nên bị ghét, âu cũng là lẽ thường. Trung thần Chu Văn An đã “điểm mặt” 7 nịnh thần nên bị họ triệt tới cùng. Xưa đã vậy, nay cũng thế. Người đời “kèn cựa” nhau đã đành, người theo đạo Chúa cũng chẳng hơn gì! Thậm chí người thời nay còn tinh vi hơn nhiều!

Ghét thì rất ghét, nhưng họ đã không thể tìm được một cớ hay một thiếu sót nào để bắt lỗi, vì ông Đanien vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì sơ suất hay thiếu sót nơi ông. Vì thế, những người ấy mới nói với nhau: “Chúng ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Đanien này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y” (Đnl 6:6). Quá thâm độc!

Con người ngày nay vẫn đang lăn vào “vết xe cũ”, nhưng theo “phong cách” tân kỳ hơn, thế mà vẫn “hãnh diện”. Có lẽ vì thế mà Thiên Chúa soi sáng cho Giáo hội biết phải Tân Phúc Âm hóa, xét lại đức tin của chính bản tân mình trước rồi mới nói tới người khác!

Ông Đanien là hiện thân của những người “ăn ngay ở lành”. Những con người ấy vẫn kiên cường tín thác vào Chúa: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con” (Tv 18:2). Họ luôn tin yêu và tâm sự với Chúa: “Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:4).

Trước mặt người đời, họ là kẻ bị lép vế, bị thua thiệt, bị khinh miệt, bị ghen ghét, bị xa tránh, bị trù dập, nhưng họ vẫn âm thầm cầu nguyện và nương tựa vào Chúa. Họ hiên ngang nói: “Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, Ngài đặt tôi đứng vững trên đỉnh núi” (Tv 18:46). Ngay trong gian truân, họ vẫn tuyên tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Ngài là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi” (Tv 18:47). Đúng như tác giả Thánh vịnh chia sẻ kinh nghiệm: “Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Ngài đã lập. Chúa hằng ưu ái Đấng mà Ngài đã xức dầu tấn phong, là Đa-vít cùng dòng dõi đến muôn đời” (Tv 18:51).

Thánh Phaolô nói: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Ngài hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7:23-25). Đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: “Một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:23-26).

Thư gởi giáo đoàn Do Thái xem chừng không ăn nhập gì, vì nói tới chức tư tế, nói tới thừa tác vụ. Nhưng không, rất “ăn nhập” đấy. Tại sao? Tư tế là những người có trách nhiệm củng cố đức tin cho giáo đoàn. Cây càng cao, gió càng lay. Tất nhiên. Vì thế, Chúa hỏi Phêrô không chỉ 1 lần mà hỏi tới 3 lần: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21:15). Đó cũng là câu hỏi hằng ngày Chúa Giêsu vẫn hỏi mỗi người trong chúng ta. Mỗi người có cách trả lời khác nhau, nhưng đó là điều kiện Chúa đòi hỏi từng người phải thực hiện nghiêm túc, nhất là trong Năm Đức Tin này, để chứng tỏ lòng tin của mình.

Rất dễ đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”, nhưng vấn đề không chỉ là thuộc lòng và đọc như vẹt, mà là thể hiện lời tuyên tín đó một cách sống động bằng hành động cụ thể. Không dễ đâu, tôi ơi!

Thánh Phaolô giải thích: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Ngài, Ngài đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7:27-28).

Đức Kitô đã hiến tế, chúng ta cũng phải hiến tế. Chúa Giêsu đã hóa thành tấm bánh nuôi sống chúng ta, thì chúng ta cũng phải CẦM LẤY, TẠ ƠN, BẺ RA và TRAO TẶNG chính Tấm-Bánh-Cuộc-Đời-Mình cho người khác, nhất là trao cho những con người bé mọn.

Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12:28). Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:29-31).

Nghe có vẻ “đã tai” nên ông kinh sư nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Ngài ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:32-33). Chắc hẳn chúng ta cũng mang tâm trang như ông kinh sư này, cũng thấy rất thú vị và hợp lý, nhưng NGHE và CHẤP NHẬN là một chuyện, còn THỰC HIỆN lại là chuyện khác. “Khoảng cách” đó vừa gần vừa xa. Thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan như vậy, Đức Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Nói “mến Chúa” quá dễ, nói “yêu người” cũng quá dễ”. Tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Vấn đề quyết định cuối cùng phải là THỰC HÀNH điều mình nói để chứng tỏ ĐỨC TIN, vì “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Đó mới là… “chuyện lớn”.

Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con đức tin vào Ngài qua Đức Kitô, xin giúp chúng con giữ vững và thể hiện đức tin qua từng động thái hằng ngày, bằng cách thật lòng chia sẻ mọi nỗi đau của tha nhân, nhất là những con người nhỏ bé nhất đang ở bên cạnh chúng con mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

Bài 3. HAI ĐIỀU RĂN
P. Trần Đình Phan Tiến

Phần bài Tin Mừng (Mc 12, 28-34) hôm nay, nằm trong phần c), của 3 phần, trong phần “Ba cuộc tranh luận và một lời giáo huấn”

Ý chính của đoạn Tin Mừng là “Mến Chúa & Yêu người”.

I) Điều răn đứng đầu

Bài đọc 1 (Đnl 6,2-6), cho thấy Giới răn đứng đầu là giới răn “Mến Chúa”, là giới răn trọng nhất. Nhưng cũng từ đoạn sách (Đnl 6,4-9), được người Israel, chọn làm kinh đọc hằng ngày, gọi là kinh “Sơ-ma”. Có nghĩa là điều mà, người Israel phải ghi tạc vào lòng ,là điều răn đứng đầu.

“Hỡi Israel! hãy nghe đây: “Chúa là Thiên Chúa chúng ta duy nhất”. Ngươi phải kính mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi. Hãy ghi tạc các điều ta truyền dạy hôm nay vào tâm khảm ngươi, thuật lại cho con cháu, suy niệm các điều đó lúc nằm ở nhà, khi đi ngoài đường hoặc nằm ngủ hay thức dậy; buộc những điều đó nơi tay mình, như con dấu hiện hữu và máy động trước mắt ngươi; lại viết các luật lệ trên cột và mi cửa nhà ngươi.

Như vậy, Cựu ước chỉ có một điều răn duy nhất, là kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và chỉ duy một mình Thiên Chúa với tất cả tấm lòng, linh hồn và sức lực.

Nhưng đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lập lại như thế (c 30), nhưng Người thêm vào một điều răn nữa là: Phải yêu người thân cận như chính mình (Mc 12,31).

Như vậy, có phải là Chúa Giêsu tự ý thêm thắt vào một điều răn thứ hai không kém phần quan trọng, như điều răn thứ nhất không?

Thưa không , bởi vì điều răn yêu người cũng có từ Cựu ước, nằm trong mười điều răn của Đức Chúa Trời (Đnl 5, 7-21). Như vậy, mười điều răn của Đức Chúa Trời, gồm tóm có hai điều là Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như mình ta vậy. Nên chi hai điều răn nầy luôn là sự phù hợp và cần thiết với nhau, vì không thể chọn điều nầy mà bỏ điều kia. Chúa Giêsu đến để kiện toàn lại cho phù hợp chứ Người không tự đặt ra thêm điều gì. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự với cả sức lực và linh hồn, nhưng đồng thời ,những người thân ở bên cạnh ta, là cha mẹ, vợ chồng con cái, anh em, bạn hữu và những người ta gặp, mà ta không yêu thương họ thì thật là bất hợp lý.

Vì như thánh Gioan đã nói: “Những kẻ nói yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét bỏ anh em mình là những kẻ nói dối, vì anh em ở ngay trước mắt mình, mà mình không yêu, thì Thiên Chúa là Đấng không nhìn thấy được mà sao yêu được” (1Ga 4,20-21).

Cũng vậy, không thể yêu người mà bỏ Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên con người, Thiên Chúa vô cùng tốt lành ,thánh thiện, thì không hà cớ gì mà không yêu mến Thiên Chúa. Vì con người mà không yêu mến Thiên Chúa, thì không phải là con người, vì Thiên Chúa là nguồn gốc cho chúng ta yêu mến.

Yêu mến người thân cận, có nghĩa là không làm tổn hại họ dưới bất kỳ hình thức nào, vì điều mình không muốn thì không làm cho người khác. “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Quả là không sai.

Như vậy, Thiên Chúa giáo từ Cựu đến Tân ước, luôn có một con đường bất di bất dịch đó là mến Chúa và yêu người. Yêu người có nghĩa là yêu từ người thân trong gia đình ra đến ngoài xã hội, chứ không phải tôi chỉ yêu mến người thân trong gia đình mà bỏ qua những người tôi gặp ngoài xã hội. Tôi phải yêu tất cả mọi người và ngay cả kẻ ghét tôi. “Vì yêu kẻ yêu mình, đó là lẽ đương nhiên, nhưng ai đem tình yêu đáp lại kẻ ghét mình, thì coi như dâng cho Thiên Chúa một ly nước” (T. Martino de pores ).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, điều đó đẹp hơn của lễ toàn thiêu và mọi hy lễ. Xin cho chúng con luôn ý thức Lời dạy của Chúa mà chu toàn cho nên. Amen./.

Bài 4. Mến Chúa yêu người
Thiên Phúc

Trong báo Los Angeles ngày 13-13-1997 có đăng lá thư của một độc giả ở Sun City, California gởi cho nữ ký giả Ann Landers – người phụ trách mục “Giải đáp thắc mắc” như sau :

Bà Ann thân mến

…Ba tôi đi làm sáu ngày một tuần, còn mẹ tôi lúc nào cũng bận rộn với việc lau chùi nhà cửa, giặt giũ, nấu ăn. Cả hai người đều lớn lên trong những gia đình không bộc lộ tình cảm. Ông bà tôi không bao giờ bộc lộ tình cảm dành cho cha mẹ tôi và chẳng bao giờ nói với họ rằng họ được yêu thương. Vì vậy, cũng dễ hiểu là tại sao ba mẹ tôi đã không bộc lộ tình cảm hay nói những lời thương mến với chúng tôi.

Cuộc đời tôi đã thay đổi khi tôi lên chín tuổi. Hôm ấy có dịp ở lại qua đêm ở nhà một cô bạn. Mẹ cô hôn cả hai chúng tôi khi cho chúng tôi lên giường ngủ. Cử chỉ ấy đã biến đổi đời tôi. Tôi quá cảm động vì hành vi yêu thương ấy, đến nỗi tôi không thể ngủ được. Tôi nghĩ : “Đây mới thực là cách lẽ ra ba mẹ phải làm cho mình”. Khi về nhà, tôi đã giận ba mẹ một thời gian. Nhưng vì không thể giận ba mẹ hoài vì tính tình sẵn có của họ.

Đây là điều tôi đã làm để thay đổi tình hình : Tôi bắt đầu hôn mẹ tôi thường xuyên đến nỗi mẹ tôi phải bật cười. Tôi đã kết hôn khi lên 17 tuổi và đã có hai con khi chưa đầy 20. Tôi thường hôn chúng đến khi má chúng ửng hồng. Khi nói chuyện với mẹ tôi trên điện thoại, tôi nói : “Mẹ ơi ! Con thương Mẹ !” Sau một thời gian, cuối cùng mẹ tôi cũng đã nói được với tôi : “Mẹ cũng rất thương con”. Tôi chưa được nghe như thế bao giờ. Sau lần ấy vài tuần khi tôi đến thăm mẹ, bà hỏi tôi : “Những cái hôn của mẹ đâu ?” Khi tôi sắp về mẹ tôi bảo : “Mẹ thương con. Con biết mà phải không ?”

Đạo Do thái dựa trên 10 điều răn. Nhưng qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên hôm nay một luật sĩ đã đến hỏi Đức Giêsu : “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất ?” Người đáp : “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai : Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mc.12,30-31). Giới răn thứ nhất trích trong sách Đệ Nhị luật đoạn 6, câu 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật đoạn 19, câu 18. Vậy Đức Giêsu đã nâng luật mến Chúa ngang với luật yêu người. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất : “Mến Chúa yêu người”. Nó như hai mặt của một đồng tiền, không thể tách rời nhau được. Thánh Gioan quả quyết : “Nếu ai nói : “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối ; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy” (1Ga.4,20).

Vậy bắt đầu yêu thương từ đâu ? – Trước tiên, hãy yêu thương những người trong gia đình mình, những người gần gũi thân thiết nhất trong trái tim ta. Không yêu được các thành viên trong gia đình, chúng ta không thể yêu thương người khác. Không yêu thương người khác, chúng ta cũng không thể yêu mến Thiên Chúa.

Người đàn bà ở Sun City bằng những lời nói yêu thương, những cử chỉ âu yếm, những đón tiếp chân thành đã mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho những người thân yêu trong gia đình. Từ đó, như vết dấu loang tình yêu lan tỏa ra bên ngoài. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu : “Hãy tử tế khi còn gần nhau để sau này khỏi hối hận khi đã xa nhau”.

Cũng thế với những lời nói yêu thương, những nghĩa cử chân thành, chúng ta sẽ làm tươi mát biết bao cuộc đời. Lúc đó, chúng ta sẽ ra khỏi sự hạn hẹp của tình yêu con người, để vươn cao tới tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là tình yêu của chúng ta đối với nhau. Thánh Augustinô mô tả : “Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy nỗi bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở và nỗi buồn phiền của tha nhân”. Thomas Merton nói : “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”. Rosalie còn khẳng định : “Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương”.

Lạy Chúa, để gặp gỡ tha nhân chúng con phải mở to đôi mắt, để đón tiếp tha nhân chúng con phải dọn dẹp cho trống trải lòng mình, để yêu thương anh em chúng con phải biết quên mình.

Xin cho chúng con luôn xác tín : Chúng con chỉ kính mến Chúa khi thực sự yêu thương anh em. Amen.

Bài 5. Hai Mặt Bàn tay
AM Trần Bình An

Công ty địa ốc MKB Fastighets AB – trực thuộc Hội đồng Malmo, thành phố lớn thứ ba của Vương quốc Thụy Điển, đã bỏ ra 1,3 triệu kronor (197.000 USD) cho một chiến dịch khuyến khích những người thuê nhà của họ, chào hỏi hàng xóm láng giềng, như trong câu hát “khi mỗi hàng xóm là một người bạn” trong nhạc phẩm bất hủ Happy New Year của ban ABBA.

Chiến dịch“Lời chào đến hang xóm bạn”(Sag hej till din granne) được MKB thực hiện từ ngày 7-7-2012, dựa trên kết quả khảo sát vào đầu năm nay: 70% muốn nhờ vả hàng xóm khi cần thiết, 70% tin mối giao hảo với hàng xóm tốt cho mọi người và 80% muốn nói chuyện với hàng xóm.

Từ 15 năm nay số người nhập cư tăng cao, chủ yếu đến từ các nước Hồi giáo. Nhiều người chọn Malmo vì nằm ở cực nam, khí hậu ấm áp hơn thủ đô Stockholm. Tuy Malmo rộng chỉ hơn 280.000km2, chỉ có 293.900 người, nhưng có tới 170 quốc tịch và 150 tiếng nói khác nhau!

Điều đáng chú ý là cùng với sự lớn mạnh của các cộng đồng nhập cư thì tình trạng bạo lực, tội phạm có vũ trang, buôn lậu ma túy cũng gia tăng. Đó là chưa kể tình trạng bạo lực gia đình, phổ biến nhất là trong những gia đình gốc nhập cư Hồi giáo, đến từ Trung Đông và Pakistan.

Chiến dịch chào hỏi của MKB như vậy có thể được xem như một sáng kiến mới của thành phố “nhiều màu sắc” này, làm mọi người xích lại gần nhau hơn, nhất là trong bối cảnh Malmo sẽ là thành phố chủ nhà cho Eurovision 2013, cuộc thi hát uy tín nhất tại châu Âu (Tuổi Trẻ 12/10/2012).

Theo tạp chí The Economist, Thụy Điển đứng đầu về chỉ số dân chủ trên thế giới và đứng thứ bảy trong Liên Hiệp Quốc, về chỉ số phát triển con người. Tuy nhiên theo thống kê, Thụy Điển là một trong những nước vô thần nhất thế giới, vì 85% người dân không tin vào tôn giáo. (Wikipedia)

Bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc đến thái độ đối với tha nhân. Thánh Marcô tường thuật một kinh sư cảm phục Chúa Giêsu đối đáp hay, bèn đến hỏi Người: “Thưa Thầy trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12, 28). Nhưng trong Tin Mừng Thánh Matthêu và Luca, lại nói rõ là vị kinh sư đó, đại diện cho nhóm Pharisiêu đển thử thách Người, ngay sau khi Người “đã làm cho nhóm Xa Đốc phải câm miệng.” (Mt 22, 34).

Yêu Chúa yêu người

Đức Giêsu trả lời: Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 29-31)

Ngoài Lề Luật trong Sách Thánh, các thầy rabbi còn thêm 248 điều răn và 365 điều cấm. Người ta còn phân biệt khoản lớn với khoản nhỏ, điều nặng với điều nhẹ. Như thế, đâu dễ dàng tìm ngay ra một câu giải đáp vắn gọn và đầy đủ như yêu cầu của vị kinh sư. Nhưng Chúa Giêsu trả lời ngay lập tức, đã khiến vị kinh sư phải tức khắc khẩu phục, tâm phục.

Hai Mặt Bàn Tay

“Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, Ngoài Người ra không có đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12, 32-33).

Nghĩ Chúa Giêsu sẽ sa vào cái bẫy với hàng trăm luật lệ rườm rà, như mớ bong bong, nhưng nghe thấy Người tóm gọn chính xác và vắn tắt điều răn quan trọng, vị kinh sư ngạo mạn phải kính cẩn, chân thành ca ngợi Người và đồng thanh khẳng định lại chân lý đó.

Từ thái độ thách đố, khinh khi, chuyển ngay sang thái độ phục thiện và tôn kính, vị kinh sư đương nhiên hiểu rằng: Yêu Chúa và yêu tha nhân liên kết chặt chẽ như hai mặt của bàn tay, hai mặt của đồng tiền, không thể phủ nhận mặt nào hết, nếu muốn giữ nguyên giá trị.

Cụ thể hóa giới răn hàng đầu

Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: “Ông không còn xa nướcThiên Chúa đâu!” (Mc 12, 34) Người khen vị kinh sư và muốn ông cụ thể hóa điều vô cùng trọng đại đó, áp dụng ngay vào cuộc sống. Còn khoảng không còn xa kia tùy theo cái tâm mỗi người chân thành hay không.

Trở lại câu chuyện bên trên, sở dĩ Cty địa ốc MKB Fastighets AB, phát động “Lời chào đến hàng xóm bạn”, vì dân cư thiếu quan tâm đến tha nhân, chẳng yêu người, vì đã khước từ Thiên Chúa hiện diện trong đời sống.

Đối với Kitô hữu, không tài nào kính mến Thiên Chúa mà không thương mến nhân loại, thương mến nhân loại mà không yêu thương mọi người, yêu thương mọi người mà không quý mến những người mình biết, với một tình yêu cụ thể và tích cực (M. Delbrel).

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho con yêu mến Chúa, bằng chính cuộc sống thương yêu chia sẻ đến với mọi người con quen biết. Cho con biết yêu người như chính bản thân con.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết chấp nhận và yêu mến mọi người, như xưa kia Mẹ hằng thương yêu, chăm lo, săn sóc các Tông đồ cùng toàn thể cộng đồng, từ tiệc cưới Cana đến đồi Golgotha, vì tình yêu Thiên Chúa muôn đời. Amen.

Bài 6. TIÊU CHUẨN ĐỂ ĐẠT HẠNH PHÚC NƯỚC TRỜI
LM ĐAN VINH

I. HỌC LỜI Chúa

1. LỜI CHÚA:

2. Ý CHÍNH: TÁM MỐI PHÚC THẬT

Mát-thêu gom nhiều điều Chúa Giê-su nói trong nhiều hoàn cảnh khác nhau làm thành “Bài Giảng Trên Núi” hay là “Hiến Chương Nước Trời”. Tin Mừng hôm nay là phần đầu của Bài Giảng Trên Núi, trong đó nêu ra 8 điều kiện mà ai muốn gia nhập vào Nước Trời của Chúa Giê-su đều phải có, được gọi là Tám Mối Phúc Thật. Chẳng hạn: Tinh thần nghèo khó, nhân đức hiền lành, tâm hồn sám hối, luôn khao khát sống công chính, có lòng thương xót, có tâm hồn trong sạch, biết ăn ở hòa thuận, bị bách hại vì đức Tin. Ai sống theo 8 tinh thần này thì thật diễm phúc, vì sẽ được làm thành viên của Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và Thiên Đàng mai sau.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-3: + Đoàn lũ đông đảo: Gồm các Tông Đồ, các môn đệ và dân chúng đến từ Ga-li-lê-a, miền Thập Tỉnh, miền Giu-đê và thủ đô Giê-ru-sa-lem. Lại có cả dân ngoại từ các thành Ty-rô và Si-đon (x. Lc 6,17; Mt 4,25). Như vậy đoàn lũ đông đảo nói lên tính cách phổ quát của sứ điệp của Chúa Giê-su. + Người đi lên núi: Núi ở đây thực ra chỉ là một ngọn đồi ở gần Ca-phác-na-um. Nhưng Tin Mừng Mát-thêu dùng tiếng núi để gợi lại việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước cũ và ban Lề Luật cho Ít-ra-en. + Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên: Ngồi là tư thế của vị Thầy khi giáo huấn các môn đồ (x. Mt 13,1). + Phúc thay: Đây là kiểu nói hay được dùng trong Cựu Ước (x. Tv 1,1-2; Cn 3,3). Ở đây Đức Giê-su sử dụng lối nói này để khai mạc Nước Trời, trong đó những người nghèo đói, hèn mọn, sầu khổ… sẽ được hạnh phúc thật, miễn là họ tiếp nhận sứ điệp của Người. Mát-thêu dùng kiểu nói: Phúc thay ai…, còn Lu-ca (6,20-26) thì viết: Phúc cho anh em…+ Tinh thần nghèo khó, vì Nước trời là của họ: Nghèo khó là thái độ của người khiêm tốn, hóa nên như trẻ em (x. Mt 18,1-11). Tinh thần nghèo khó cũng đồng nghĩa với sự siêu thoát, sẵn sàng từ bỏ của cải vật chất để trở thành môn đệ Chúa và được vào Nước Trời do Chúa thiết lập (x. Mt 6,19-21). Đức Giê-su không coi nghèo khó là điều tốt, vì nghèo thường đi đôi với dốt nát, thất bại và bất hạnh. Người dạy môn đệ không được tham lam tiền của bất chính và không cậy dựa vào thế lực của tiền tài, phải coi đồng tiền là đầy tớ thay vì là ông ông chủ của mình. Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su nói: “phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vìu Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Đức Giê-su không mị dân chúc lành cho sự nghèo khó. Người muốn tái lập một trật tự mới công bình: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,51-53).

- C 4-5: + Hiền lành: Trong Kinh Thánh, sự hiền lành luôn đi đôi với sự nghèo khó, khiêm nhường, nhỏ bé, yếu đuối, bị oan ức và bị thiếu thốn. + Đất Hứa làm gia nghiệp: Đất Hứa là một kiểu nói ám chỉ Nước Trời (x. Tv 37,11). + sầu khổ: là than khóc, buồn sầu vì đã phạm tội mất lòng Chúa và phải xa lìa Thiên Chúa. Buồn sầu thường do tội lỗi gây ra (x. 1 Cr 5,2). Đây cũng là tâm tình của người đang mong đợi ơn cứu rỗi như lời ông Si-mê-on (x. Lc 2,25). + Được Thiên Chúa ủi an: Họ sẽ được Thiên Chúa an ủi và ban ơn tha thứ trong giờ phán xét sau này.

- C 6-8: + Khát khao nên người công chính: Công chính là cách ăn ở hợp với thánh ý Thiên Chúa (x. Mt 3,15). Khát khao nên người công chính là ước mong sống công bình ngay chính, tuân giữ Luật Chúa truyền dạy (1,19; 5,20). + Nước Trời là của họ: Hạnh phúc Nước Trời sẽ là phần thưởng dành cho những ai muốn sống cuộc đời hoàn thiện. + Xót thương người: nghĩa là tỏ lòng nhân hậu đối với các tội nhân noi gương Thiên Chúa như lời tuyên sấm của ngôn sứ Hô-sê: “Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế” (Hs 6,6) và như người Sa-ma-ri nhân hậu đã giúp đỡ kẻ gặp nạn (x. Lc 10,33-37). + Sẽ được Thiên Chúa xót thương:Thương xót và tha thứ cho kẻ khác thì sẽ được Thiên Chúa xót thương tha tội nợ cho mình (x. Mt 6,14-15). Ông chủ trong dụ ngôn “Hai con nợ” đã mắng kẻ không biết thương xót: “Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi vì ngươi đã van xin Ta. Thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33). + Lòng trong sạch: Trong sạch là ngay thẳng trong lương tâm. Người có lòng trong sạch hết mình phục vụ Chúa và tha nhân, không màng tư lợi, không đạo đức giả. Sự trong sạch không những nói về đức khiết tịnh, mà còn về nhiều phương diện khác nữa. + Được nhìn thấy Thiên Chúa: Là được về trời gặp mặt Người ở đời sau (x. Dt 12,14).

- C 9-10: + Xây dựng hòa bình: Sứ mệnh của các môn đệ là phải làm cho mọi dân nước trên thế giới trở thành một gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau. Cần hòa giải những tranh chấp, để của lễ dâng lên Chúa xứng đáng được chấp nhận (x. Mt 5,23-24). + Được gọi là con Thiên Chúa: Vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Ai yêu thương thì mới được ở trong Thiên Chúa và nên con cái Thiên Chúa. Họ sẽ được Chúa yêu thương và tâm hồn họ sẽ được bình an (x 2 Cr 13,11). + Bị bách hại: Bị bách hại là một đặc điểm của Chúa Giê-su, Đấng đã trải qua cuộc khổ nạn để vào vinh quang phục sinh. Đây là một điều khó hiểu, điên rồ đối với người Do thái và khó chấp nhận ngay cả với các môn đệ (x. Mt 16,22). + Vì sống công chính: Nghĩa là sống phù hợp với giáo huấn của Chúa Giê-su (x. Mt 10,24-25). Thánh Phê-rô cũng nói: “Nếu anh em chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc!” (1 Pr 3,14).

- C 11-12a: + Vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa: Lời Chúa giải thích mối phúc thứ tám để động viên các tín hữu thời sơ khai đang bị bách hại. + Anh em hãy vui mừng hớn hở:Thánh Phê-rô cũng dạy: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỉ. Nếu bị xỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em” (1 Pr 4,13-14). + Vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao: Khi chịu đau khổ bách hại và liên kết với cuộc tử nạn của Chúa, sẽ được nên giống Chúa và sau này được vào Thiên Đàng hưởng hạnh phúc với Người

HỎI: 1- Tám Mối Phúc Thật là bản tóm lược những điều kiện phải có để được vào Nước Trơi do Chúa Giê-su thiết lập. Trong đó, mối phúc nào là quan trọng nhất và là nền tảng của các mối phúc khác? 2- So sánh ý nghĩa câu: “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó” trong Tin Mừng Mát-thêu với câu “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” trong Tin Mừng Lu-ca khác nhau thế nào? Phải chăng Đức Giê-su đề cao sự nghèo khó, thường là nguyên nhân gây ra tội lỗi như người đời thường nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc”? 3- Tại sao Chúa Giê-su lại chúc phúc và đề cao người nghèo, đang khi lẽ ra Người phải giúp đỡ người nghèo vượt qua sự nghèo đói bất hạnh ấy để cuộc sống của họ được ấm no hạnh phúc hơn? 4- Ý nghĩa của các mối phúc khác như thế nào: hiền lành, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình, bị bách hại vì Thầy?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,2).

2. CÂU CHUYỆN: GƯƠNG SỐNG NGHÈO KHÓ:

PHAN-XI-CÔ THÀNH AT-SI (Phanxico Assise) là con một người giàu có danh giá ở thành Át-si. Một hôm đi nhà thờ dự lễ, tình cờ nghe một vị linh mục gảng một bài về Tám Mối Phúc Thật, Phan-xi-cô rất tâm đắc với câu nói của Chúa: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Từ hôm ấy, Phan-xi-cô thường suy nghĩ phải sống thế nào để thực thi ý Chúa, và trở thành một người nghèo thực sự? Rồi một ngày nọ, anh quyết định sống siêu thoát và từ bỏ để hoàn toàn tin cậy vào Chúa quan phòng. Anh bán tất cả gia sản của cha, rồi đem phân phát cho người nghèo khổ bệnh tật. Hành động của Phan-xi-cô đến tai người cha làm ông nổi giận. Ông đã đến thu hồi tất cả những gì còn lại và không nhận Phan-xi-cô làm con nữa. Hôm ấy anh đã cởi bỏ các thứ quần áo giầy dép quí giá đang mang trên người và ra đi với hai bàn tay trắng. Anh viết trong nhật ký: “Bây giờ tuy không còn có cha ở trần gian, nhưng tôi vẫn luôn có Cha Trên Trời hằng thương yêu tôi”. Từ hôm đó anh được hoàn toàn tự do đi theo lý tưởng đã lựa chọn, là từ bỏ mọi sự, trở nên nghèo khó vì Nước Trời”. Ban ngày anh mặc quần áo vải thô, chân không giày dép đi qua các đường phố và làng mạc để khất thực. Tối đến, anh lại thức khuya để đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và dùng dây da tự đánh vào người hãm mình phạt xác. Anh đã được Chúa Giê-su cho in năm dấu thánh trên hai bàn tay bàn chân và cạnh sườn để nên giống Người. Anh đã thực hành theo Lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Lối tu luyện khổ hạnh của anh đã được Giáo Hội công nhận và dòng “Anh em hèn mọn” do anh sáng lập đã được nhiều người đến xin gia nhập và trở thành một dòng tu lớn trong Giáo Hội. Sau khi qua đời, anh được Hội Thánh phong hiển thánh tức là thánh Phan-xi-cô Át-si, hoặc Phan-xi-cô khó khăn hay Phan-xi-cô Năm Dấu.

3. SUY NIỆM:

1) HẠNH PHÚC LÀ GÌ?

Hầu như không ai trong chúng ta đạt được hạnh phúc trọn vẹn. Ngay giữa lúc xem ra hạnh phúc nhất như vừa thi đậu, vừa được thăng chức, gặp được người thân, được xuất ngọai, được trúng số… nhưng vẫn có những điều làm chúng ta không thỏa mãn. Trong Bài Giảng Trên Núi, Đức Giê-su đã chỉ cho chúng ta bí quyết để có hạnh phúc đích thực trọn vẹn. Thiên Chúa ban hạnh phúc, nhưng chúng ta chỉ nhận được khi có khả năng và mở lòng đón nhận. Hạnh phúc thật chỉ có khi chúng ta có Chúa là lẽ sống, được gia nhập vào Nước Trời, được sống trong ơn nghĩa Chúa và được vui hưởng hạnh phúc viên mãn. Tóm lại, người được chúc phúc là người biết mở cửa lòng đón nhận Thiên Chúa và tha nhân: mở trí khôn để hiểu rõ thánh ý Thiên Chúa và thi hành, mở mắt mở tai để nhìn xem và nghe biết những nhu cầu của tha nhân và mau mắn đáp ứng; mở trái tim để yêu thương mọi người; mở miệng để nói lời động viên an ủi và mở đôi tay để chia sẻ cơm áo vẫt chất và phục vụ tha nhân…

2) PHÚC THAY!: Đây là tám điều kiện phải có để đạt được hạnh phúc Nước Trời:

+ Phúc thay người có tâm hồn nghèo khó: Đó là những người nghèo của cải vật chất, nghèo địa vị chức quyền, những người ý thức thân phận tội lỗi bất lực của mình để khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Người, biết khiêm hạ phục vụ cho người dưới noi gương Đức Giê-su.

+ Phúc thay ai hiền lành: Là người có lòng nhân từ, không lấy oán báo oán, nhẫn nhịn chịu đựng và tha thứ những xúc phạm của kẻ khác đối với mình.

+ Phúc thay ai sầu khổ: Là người gặp sự đau khổ mà không óan than, nhưng biết nhìn lên Chúa Giê-su trên thập giá để nhận biết giá trị thanh luyện và cứu độ của đau khổ, sẵn sàng chịu đựng những sự trái ý cực lòng để đền tội mình và tha nhân.

+ Phúc thay ai khao khát nên người công chính: Là người luôn hướng thượng, muốn nên hoàn thiện giống Chúa Cha trên trời như Đức Giê-su đã dạy: “Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.

+ Phúc thay ai xót thương người: Là người biết mở rộng lòng để cảm thông với nỗi đau của người khác: “Vui với người vui, khóc với người khóc”. Có lòng quảng đại để chia sẻ tình thương và cơm áo cho những người đau khổ bất hạnh. Họ sẽ được Chúa đền đáp cân xứng sau này. “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì sẽ được Thiên Chúa đong trả lại bằng chính cái đấu ấy”.

+ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch: Là người không tìm thỏa mãn các đam mê nhục dục thấp hèn, biết ăn ở ngay thẳng, thật thà, không giả dối, luôn hành động trong sáng. Chính nhờ sự trong sạch nơi thân xác và tâm hồn mà họ sẽ được chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa trong Nước Trời mai sau.

+ Phúc thay ai xây dựng hòa bình: Là người luôn gieo rắc sự an vui hòa thuận mọi lúc và mọi nơi. Nhờ họ mà gia đình, xã hội và thế giới sẽ có hòa bình. Họ giải tỏa những hiểu lầm, giải gỡ những bất hòa tranh chấp, luôn nhìn mọi người bằng cặp mắt yêu thương và chan chứa tình người. Nhờ đó, họ xứng đáng mang danh hiệu là con của Thiên Chúa.

+ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính: Là người chấp nhận bị sỉ nhục và chịu bách hại vì đức tin. Khi ấy họ sẽ được nên giống Chúa Giê-su. Những ai chấp nhận bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa Giê-su, cùng chịu đau khổ với Người, thì sẽ được tham phần vào sự phục sinh vinh quang của Người sau này.

4. THẢO LUẬN: 1- Hiện nay điều gì đang làm bạn vui vẻ hạnh phúc hay bị đau khổ bất hạnh? 2- Khi gặp một điều rủi ro trái ý, một thất bại ê chề, một điều không vui do kẻ khác gây ra, bạn thường phản ứng thế nào? 3- Để có được hạnh phúc thật của Chúa, bạn nên làm gì để biến rủi ro thành may mắn có Chúa, biến đau khổ thành niềm vui trong Chúa?

5. NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong tám mối phúc Chúa dạy hôm nay, con thấy mối phúc quan trọng nhất và bao gồm mọi mối phúc khác là “Phúc thay những ai có tâm hồn nghèo khó”. Người có tâm hồn nghèo khó là người luôn tin cậy phó thác cuộc đời cho Chúa và cầu nguyện không ngừng ; Là người ý thức sự nghèo khó bất lực của mình, nên không xem thường tha nhân và luôn phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Chúa ; Là người luôn ăn ở hiền lành và khiêm nhường trong lòng noi gương Chúa khi xưa.

- LẠY CHÚA. Người Mã Lai đã có câu châm ngôn so sánh các bậc vĩ nhân với những kẻ tiểu nhân như sau: “Cây lúa nào càng nặng trĩu hạt thì càng rạp sâu xuống sát mặt đất. Ngược lại: cây lúa nào càng nghểnh lên cao thì lại càng ít hạt”. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống khiêm hạ và nghèo khó. Cho chúng con biết “Nói ít làm nhiều”, luôn từ tốn, khiêm nhu và hòa nhã với mọi người. Nhờ đó, chúng con sẽ nên giống Chúa hơn, sẽ có Nước Trời làm phần gia nghiệp đời này và đời sau.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

Bài 7. GIỚI LUẬT CĂN BẢN
JM. Lam Thy ĐVD.

Bản chất con người vốn dĩ là thích yêu hơn bị ghét, và nếu có yêu thì chỉ thích yêu mình hơn cả. Còn oái oăm hơn nữa là khi thù ghét người khác thì lại không muốn người ta thù ghét mình. Nếu không vì thế, các bậc thánh hiền đã không mất công truyền dạy “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (己 所 不 欲 勿 施 於 人: Điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác – Khổng Tử); “Ái nhân như ái thân” (愛 人 如 愛 身: Yêu người như yêu mình – Nho giáo). Thiên Chúa thì còn hơn thế nữa, tình yêu Người dành cho nhân loại đã lên tới tuyệt đỉnh: Vì tình yêu, Người đã dựng nên loài người có nam có nữ; cũng vì tình yêu, Người đã ban cả Con Một làm giá chuộc muôn người. Và chính Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô – luôn luôn day: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7, 12); “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 15).

Quả nhiên tình yêu Thiên Chúa dành cho loài người là vô cùng vô tận. Ngay khi dựng nên vũ trụ, Đấng Sáng Tạo đã vì tình yêu bao la (tình bác ái) mà dựng nên con người theo hình ảnh Người, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất (St 1, 28). Tuy vậy nhưng Thiên Chúa vẫn không quên con người là vật thụ tạo, để tồn tại và phát triển thì vẫn rất cần đến một thứ tình yêu giới tính (tình ái), và vì thế nên “Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người”. Và rồi Thiên Chúa phán với con người có nam có nữ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” (St 1, 27-28).

Trong Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, ĐGH Biển Đức XVI đã lý giải rất rõ ràng về Tình Yêu Thiên Chúa. Luận điểm của ĐGH đã đi từ Cựu Ước tới Tân Ước theo “nhãn quan tôn giáo” (thần học – triết lý siêu nhiên) để nhận định và lý giải Tình Yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Tuy nhiên, ngài vẫn không quên “nhãn quan triết học” (triết lý nhân sinh), khi ngài viết: “Chiều kích triết học đáng nêu ra trong hình ảnh Thánh Kinh này, và tầm quan trọng từ quan điểm lịch sử các tôn giáo, là một mặt chúng ta thấy mình đứng trước một hình ảnh rất siêu hình của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối và là nguồn mạch của mọi loài; nhưng mặt khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này – Logos, Đấng Thượng trí – lại đồng thời là một người biết yêu với tất cả đam mê của một tình yêu thật sự. “Eros” (ái tình: 愛 情) vì thế đã nên tột cùng cao quý, nhưng đồng thời thuần khiết đến độ nên một với “agape” (bác ái: 博愛).” (Tđ “Thiên Chúa là Tình Yêu”, số 19).

Thời Cựu Ước, Luật Mô-sê đuợc ban bố cho dân thi hành có tới 613 điều (trong đó có 365 điều xấu cấm làm và 248 điều tốt dạy phải làm). Tuy nhiên, giới luật của Thiên Chúa được ghi trên bia đá và trao cho ngôn sứ Mô-sê trên núi Si-nai (Xh 20, 1-21) chỉ có 10 điều, trong đó bao gồm 3 điều về yêu mến Thiên Chúa và 7 điều còn lại là yêu thương đồng loại. Như vậy, rút gọn lại, chỉ còn 2 điều cơ bản: Mến Chúa + yêu người. Và để tìm ra 2 giới luật căn bản này thì lại thấy ở 2 sách khác nhau trong Cựu Ước: Điều răn đầu trong sách Đệ nhị luật: “Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng, hết dạ, hết sức anh (em)” (Đnl 6, 5); điều răn sau trong sách Lê-vi:“Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Đến thời Tân Ước thì chính Đức Giê-su Ki-tô – hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu – nối kết lại thành một giới răn quan trọng nhất: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là:Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12, 29-31).

Tuy rằng Đức Ki-tô vẫn nói đó là 2 điều răn, nhưng thực chất giới răn này chỉ có một nội dung duy nhất là “Tình Yêu” được thể hiện bằng 2 chiều kích: Mến Chúa + yêu người. Hai chiều kích đó vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau, đan quyện vào nhau, không thể tách rời. Thật vậy, không thể yêu Thiên Chúa cách đích thực mà không yêu tha nhân, và ngược lại, không thể yêu tha nhân mà lại không yêu Thiên Chúa được. Vì thế ngay sau Lời dạy của Đức Ki-tô, thì chính kẻ đã thắc mắc – một kinh sư – cũng phải thốt lên: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” (Mc 12, 32-33); và được Thầy Chí Thánh chúc phúc: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12, 34).

Thánh Gio-an đã xác quyết: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20). Và thánh Phao-lô cũng đã viết: “Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5, 14); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 6,2). Ấy là chưa kể chính Đức Ki-tô trong lời dạy về ngày cánh chung cũng khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Muốn yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và sức lực, thì phải yêu tha nhân như yêu chính mình. Và chỉ có yêu tha nhân như yêu chính bản thân mình mới là thực sự yêu mến Thiên Chúa.

Ôi! Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con, đã ban cho con một tấm lòng, một trí khôn biết phân biệt thiện ác, biết yêu và ghét, và nhất là đã ban cho con sự tự do tuyệt đối, để con có thể tự quyết định cuộc đời của mình bằng cách lựa chọn một con đường. Con đã sai lầm trong lựa chọn để chỉ biết yêu mình trên hết, co mình vào cái vỏ ốc “ích kỷ” đến độ có thể “hại nhân” (“ích kỷ hại nhân”: lợi mình hại người). Cúi xin Chúa đoái thương, ban cho con một tâm hồn quảng đại, một tấm lòng bao dung độ lượng; xin cho con biết yêu người như yêu chính mình, biết coi tất cả mọi người (kể cả những người thù ghét con) đều là anh em một nhà (“tứ hải giai huynh đệ”), cùng con một Cha trên trời. Ôi! “Lạy Chúa từ nhân. Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người … Lạy Chúa! Xin hãy dạy con tìm yêu mến người hơn được người mến yêu, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết…” (Kinh hoà bình – TCCĐ). Amen.

Bài 8. Thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa qua việc phục vụ tha nhân
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Trong đạo Do-Thái, từ “Mười Điều Răn” Đức Chúa Trời ban cho ông Mô-sê trên núi Xi-nai, các thầy Ráp-bi diễn giải thêm thắt thành 613 điều khoản, trong đó có 248 điều buộc và 365 điều cấm.

Khi có người thông luật đến hỏi xem điều răn nào trọng nhất trong số 613 khoản luật ấy, Chúa Giê-su trả lời ngay: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi (Đnl 6,5); Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv 19,18). Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mác-cô 12, 29-31)

Chúa Giê-su nhập hai giới răn thành một

Điều răn mến Chúa được ghi trong sách Đệ Nhị Luật, điều răn yêu người được chép ở sách Lê-vi, thuộc về hai bộ sách khác nhau đã được Chúa Giê-su liên kết thành một điều răn duy nhất là mến Chúa yêu người.

Thế nhưng, có nhiều tín hữu vẫn xem việc mến Chúa và yêu người là hai điều riêng biệt, chẳng liên hệ gì đến nhau. Người ta tưởng có thể hết lòng tôn kính phụng thờ Thiên Chúa nhưng đồng thời vẫn ghét bỏ, bạc đãi con người.

Chúa Giê-su phá bỏ quan điểm sai lầm đó khi nối kết giới răn mến Chúa và yêu người thành một và Người nhấn mạnh rằng chính khi yêu người cũng là lúc mến Chúa và tình yêu đối với Thiên Chúa phải được thể hiện qua tình yêu thương anh chị em chung quanh và những gì ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa.

Tại sao lại như thế?

Thiên Chúa và con người chỉ là một

Khi Sao-lê bắt bớ các tín hữu đầu tiên theo Chúa Giê-su, ông bị Chúa Giê-su quật ngã trên đường Đa-mát và Người lên tiếng quở trách: “Sao-lê! Tại sao ngươi bắt bớ Ta?”

Thực ra, lúc bấy giờ, Sao-lê chỉ lùng bắt các tín hữu của Chúa Giê-su thôi, còn Chúa Giê-su thì đã phục sinh và lên trời rồi thì làm sao có thể bắt bớ Người được. Vậy mà Chúa Giê-su không hạch ông: “Tại sao ngươi bắt bớ các tín hữu của Ta”, mà lại nói: “Tại sao ngươi bắt bớ Ta” (Cv 9, 4).

Sở dĩ Chúa nói như vậy là vì các ki-tô hữu là hiện thân của Chúa, là những chi thể trong thân mình Người, nên ai bắt bớ họ là bắt bớ Chúa.

Đặc biệt qua dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giê-su dạy cho ta biết Người đồng hóa mình với những anh chị em chung quanh khi phán rằng: “Những gì các ngươi đã làm cho các anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta” và “những gì các ngươi đã không làm cho các anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. (Mt 25, 40.45)

Dựa vào lời dạy trên đây của Chúa Giê-su, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô XVI, qua sứ điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” cũng xác nhận rằng Thiên Chúa và con người chỉ là một. Ngài viết:

“Chúa Giê-su đồng hóa mình với những người cùng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những kẻ trần truồng, đau yếu và những người đang trong vòng lao lý. Người phán: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25:40) Như thế, mến Chúa và yêu người đã trở thành một: Trong những người anh em bé nhỏ nhất, chúng ta tìm thấy chính Chúa Giêsu… (sđd số 15)

Việc phụng thờ Thiên Chúa phải đi đôi với việc phục vụ con người

Phát xuất từ sự thật Thiên Chúa đồng hóa với con người và những gì ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa Giê-su, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô XVI dạy rằng việc phụng thờ Thiên Chúa phải đi đôi với việc phục vụ con người, không được phép xao lãng một trong hai. Ngài viết: chúng ta “không thể tách rời tình yêu mến Thiên Chúa và tha nhân vì cả hai chỉ là một giới răn duy nhất.” (sđd số 18)

Qua số 22 trong sứ điệp nầy, Ngài viết tiếp:

Vì thế, “tình yêu đối với các quả phụ, kẻ mồ côi, người bị tù đày, người bệnh tật và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thì cũng thiết yếu đối với Hội Thánh như là cử hành các bí tích và rao giảng Tin Mừng. Hội Thánh không thể lơ là việc phục vụ bác ái cũng như không thể lơ là việc ban các bí tích và rao giảng Lời Chúa.” (sđd số 22)

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa tự đồng hóa mình với con người và mỗi người thật sự là một phần thân thể của Chúa là một sự thật lớn lao cao cả trước mắt mọi người; thế mà tiếc thay, không mấy ai nhìn thấy, không mấy người nhận ra; mà vì không nhận ra sự thật cao cả nầy nên con người liên tục gây ra vô vàn đau thương, bất hạnh cho nhau trên cõi đời nầy.

Xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con và cho toàn thể nhân loại, để Người khai mở tâm hồn mọi người nhận ra sự thật vĩ đại nầy; nhờ đó, nhân loại sẽ luôn được sống trong hòa bình và yêu thương.

Bài 9. MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Bốn chữ vàng của Ki-tô giáo là “mến Chúa yêu người”. Bốn chữ ấy tóm gọn 10 điều/giới răn mà Thiên Chúa đã ban cho dân riêng Ít-ra-en qua ông Mô-sê: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.”

Sau này chính Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, đã khẳng định lại tầm quan trọng và sự liên kết của 2 điều răn ấy và lấy giới răn yêu người làm “giới răn riêng” của mình:

Người ta cứ dấu này mà nhận ra chúng con là môn đệ của Thầy là chúng con yêu thương nhau.”

Đề sống Năm Đức Tin như Mẹ Giáo Hội mong ước, chúng ta hãy thực thi Lời Chúa nói chung và giới răn “mến Chúa yêu người” nói riêng, trong đời sống cá nhân và cộng đoàn của chúng ta.

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Bài đọc 1 (Đnl 6,2-6): Nghe đây hỡi It-ra-en! Hãy yêu mến Đức Chúa hết dạ hết lòng.

2.2 Bài đọc 2 (Dt 7,23-28): Chính vì Đức Giê-su hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi.

2.3 Bài Tin Mừng (Mc 12,28b-34): Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Ngươi phải yêu người thân cận.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)

3.1.1 Bài đọc 1 (Đnl 6,2-6): là những lời truyền dậy của ông Mô-sê dành cho con cái Ít-ra-en là những người vừa mới được Thiên Chúa giải thoát ra khỏi cảnh nô lệ Ai-cập và đang trong hành trình vào Đất Hứa là Ca-na-an. Dân Chúa không có cách nào để diễn tả hết tấm lòng và mối tương quan của mình với Thiên Chúa Tạo Dựng và Cứu Độ cho bằng lòng kính sợ và sự thờ phượng Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn và hết linh hồn.

3.1.2 Bài đọc 2 (Dt 7,23-28): là những lời của Thánh Phao-lô trong thư Do-thái, nói về vai trò thượng tế của Chúa Giê-su Ki-tô. Vì Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống nên tước vị thượng tế của Người tồn tại muôn đời. Và vì Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa làm người cảm thông với con người phải vất vả khổ đau nên Người đáng chúng ta yêu mến, tin tưởng và cậy dựa.

3.1.3 Bài Tin Mừng (Mc 12,28b-34): là trích đoạn Tin Mừng Mác-cô trong đó Chúa Giê-su trả lời câu hỏi của một kinh sư: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Thật ra người Do-thái đã đặt ra quá nhiều điều luật khiến người bình dân phải bối rối, không biết đâu là chính, đâu là phụ nữa. Nhưng tự bản chất và ngay từ lúc đầu, luật của Thiên Chúa rất vắn gọn và dễ hiểu: kính sợ & yêu mến Thiên Chúa bằng/với tất cả sức lực của mình và yêu thương người khác như chính bản thân mình.

- Kính sợ và yêu mến bằng/với tất cả sức lực vì Người là Thiên Chúa duy nhất và vì đó là bổn phận của con người đối với Đấng tạo dựng nên mình. Và đó cũng chính là con đường đạt được hạnh phúc.

- Yêu thương đồng loại như chính bản thân mình vì mọi người đều là tạo vật, là hình ảnh của Thiên Chúa, là thành viên trong đại gia đình của Thiên Chúa, là anh em chị em của nhau.

3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)

Sứ điệp mà ba bài Sách Thánh dành cho chúng ta hôm nay là sống/thực thi giới răn Tình Yêu là “mến Chúa yêu người” của Thiên Chúa. Mến Chúa là kính sợ, yêu mến, thờ phượng và sống theo mệnh lệnh của Người. Yêu người là làm cho những người sống xung quanh được hạnh phúc và nhận biết Thiên Chúa là Cha.

IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian để mọi người được sống nhờ tin vào Con của Cha. Thiên Chúa cũng là Đấng muốn mọi người thực thi giới luật yêu thương “mến Chúa yêu người” để được bình an và hạnh phúc.

4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa

Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy dành cho Thiên Chúa những tâm tình kính sợ, yêu mến và làm những việc tốt lành, ích lợi cho tha nhân, nhất là cho những người cần đến tình thương và sự quan tâm chăm sóc của chúng ta.

V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ CHO THẾ GIỚI

5.1 «Anh em cũng như con cháu anh em sẽ kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mọi ngày trong suốt cuộc đời,» Chúng ta hiệp dâng lời cầu nguyện cho hết mọi người và mọi dân để họ biết kính sợ Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên mọi người và muốn cứu vớt mọi người.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.2 «Đức Giê-su không như các vị thượng tế khác:… Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ!» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI, cho các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, cho các Linh Mục và Phó Tế để các vị ấy luôn noi gương bắt chước Chúa Giê-su Ki-tô là Vị Thượng Tế hoàn hảo là Đấng Trung Gian tuyệt diệu giữa Thiên Chúa và loài người.

5.3 «Điều răn đứng đầu là: …Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho giáo dân thuộc giáo xứ chúng ta, để mọi người thực thi giới răn “mến Chúa yêu Người” trong đời sống cá nhân và cộng đoàn của mình.

5.4 «Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho những người thành tâm thiện chí và những người mộ đạo, để họ nhận ra giá trị cao quý của việc kính sợ Đấng Tối Cao và yêu thương con người.

Bài 10. Yêu Mến Đồng Loại
Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

Đức Yêsu đã đến kếp nạp một dân tín hữu là dân mới của Thiên Chúa. Việc này đã được các bài Thánh Kinh trong Chúa nhật trước gợi lại. Hôm nay hình như Phụng vụ muốn tiếp nối tư tưởng lần trước và nói lên quy chế, hay luật pháp của dân mới. Đó là luật cũ được kiện toàn. Vì thế chúng ta sẽ thấy bài Tin Mừng bổ khuyết cho bài Thứ luật, luật yêu anh em được đính vào luật mến Chúa. Rồi cũng như trong dân cũ có hàng tư tế, thì vị Thượng tế của đạo mới sẽ vượt xa các Thượng tế xưa, để dân mới luôn luôn đẹp lòng Thiên Chúa.

Tất cả những tư tưởng này rất rõ ràng trong ba bài Kinh Thánh hôm nay mà chúng ta cầu xin ơn Chúa giúp để đọc lại.

1. Ngươi Sẽ Yêu Mến Yavê

Bài sách Thứ luật hôm nay ghi lại lời kinh hằng ngày của người Dothái. Họ đọc lên không phải để thưa với Thiên Chúa nhưng để nhắc nhở cho mình nhiệm vụ căn bản nhất của người dân trong Nước Người. Đó là lời của Môsê, vị lập quốc và lập luật. Lời vô cùng quan trọng vì sẽ đem phúc đến cho dân khi họ nắm giữ và sẽ làm cho dân nên lớn trong đất chảy sữa và mật. Tương lai và số mệnh của dân tùy ở việc thi hành những lời Môsê truyền hôm nay.

Ông dạy rằng: Hãy nghe, hỡi Israel, Yavê Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Ngươi sẽ yêu mến Yavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi. Các lời ta truyền cho ngươi hôm nay hãy ở nơi lòng ngươi, ngươi sẽ lập lại cho con cái ngươi.

Phân tách những lời này, người ta sẽ phải kính phục con người nào đã biết diễn tả như thế. Chắc chắn nội dung là của Môsê rồi, nhưng hình thức của các câu văn có thể phải là kết quả của nhiều thế hệ trung thành với truyền thống của Môsê. Quả vậy, chúng ta biết: sách Thứ luật đã không thành hình trong một ngày và do một tác giả nào. Nó càng không phải là tác phẩm của thời Môsê. Nó lấy lại luật Môsê, suy đi nghĩ lại và cộng với kinh nghiệm lịch sử của Dân Chúa. Có thể hàng tư tế đã là nguồn gốc của cuốn sách này. Họ suy niệm Luật Chúa đêm ngày rồi viết ra để khuyên nhủ đồng đạo. Thế nên nó được gọi là Thứ luật, tức là Luật đến sau Luật trước; luật bổ khuyết và diễn giải Luật pháp Sinai. Nó được công bố vào những năm có nguy hiểm nhất cho dân. Nước nhà phân đôi, miền Bắc đã bị xâm lấn, miền Nam đang ngấp nghé vực sâu. Ông vua yêu nước đã chạy đến truyền thống của dân tộc, đưa sách Thứ luật ra, mưu lập một cuộc canh tân cứu nước… nhưng đã không kịp về mặt chính trị, mà chỉ phục hồi được truyền thống Môsê.

Đó là truyền thống độc thần, Israel chỉ được thờ một Chúa. Ngài là Yavê. Chính Ngài đã mạc khải danh xưng này cho Môsê trên núi Thánh. Có lẽ trong thời gian đầu Môsê tưởng Ngài chỉ là Chúa của Israel như những vị thần khác là Chúa của các lân bang và chỉ khác ở một điểm: trong khi các dân này thờ nhiều thần và vì thế gọi là đa thần; thì Israel chỉ thờ một mình Yavê và do đó được gọi là dân độc thần.

Sự khác biệt này nhiều khi thật khó giữ. Luôn luôn Israel bị cám dỗ thờ thêm thần khác, nhất là những thần của các sắc dân mạnh hơn, giàu hơn vì tưởng rằng chính các thần ban sự giàu sang sức mạnh cho dân của mình. Các tiên tri phải mạnh mẽ ngăn cản dân đi vào đường lối đó và nhắc đi nhắc lại dân phải trung thành với Yavê. Làm khác đi, thờ thêm thần khác, là “đánh đĩ” và ngoại tình.

Chúng ta không ngại nhắc đến những từ ngữ này. Chúng giúp chúng ta hiểu quan niệm tôn giáo của các tiên tri một cách sâu sắc. Người ta hay nói dân Israel chỉ có một lòng kính sợ Yavê, theo nghĩa họ khiếp sợ Ngài đến nỗi chẳng còn dám xưng danh của Ngài ra nữa. Họ dùng những kiểu nói vòng vo, gọi Ngài là Chúa, là Đấng Tối Cao… chứ không dám xưng Ngài là Yavê nữa. Thật ra đó chỉ là một diện. Còn nhiều diện khác trong vấn đề này, đặc biệt còn có quan niệm sâu sắc của các tiên tri. Các ngài luôn luôn đề cao lòng yêu mến. Hôsê chẳng hạn đã táo bạo coi tôn giáo là hôn nhân giữa Yavê và Israel; một bên như “chồng” với một bên như “vợ”, và tư cách căn bản của lòng đạo đức là nghĩa tín trung. Những tiên tri khác cũng đi vào chiều hướng đó; và trong ngữ vựng của các ngài mới có những từ ngữ như trên để nói đến thái độ thất tín đối với Yavê. Chúng ta phải hiểu quan niệm của các tiên tri như thế mới ý thức được hết sức mạnh của lời sách Thứ luật hôm nay, truyền cho Israel: hãy yêu mến Yavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi; nghĩa là phải yêu Ngài với tất cả khả năng và như quên hết mọi sự khác, giống như khi đôi bạn khắng khít yêu thương nhau, mặc cho cuộc đời bể dâu và nước chảy đá mòn.

Cho được đi đến một lòng yêu mến như vậy, Israel đã được dần dần dạy cho biết: Yavê không phải chỉ là Chúa của dân, hoặc chỉ là Chúa trên các Chúa, nhưng Ngài còn là Chúa độc nhất và duy nhất trong tất cả hoàn vũ. Các thần của các lân quốc, chỉ là ngẫu tượng và Yavê phải thống trị địa cầu. Tôn giáo độc thần của Israel sẽ là tôn giáo độc thần của mọi dân nước. Thế nên câu sách Thứ luật hôm nay nói: Yavê Thiên Chúa của chúng ta là Yavê độc nhất, câu ấy có một ý nghĩa sâu sắc trong lòng các tiên tri, Yavê không phải chỉ là Chúa duy nhất của Israel, mà còn phải là Chúa độc nhất của mọi dân tộc. Và những điều này Israel phải ghi nơi lòng và lặp lại nơi con cái. Chính nhờ sự ghi nhớ và lập lại này mà có truyền thống Môsê, truyền thống độc thần, truyền thống sách Thứ luật chúng ta đọc hôm nay.

Chúng ta cảm mến Thiên Chúa đã mạc khải chân lý độc thần này sớm sủa như vậy và nơi một dân nhỏ bé như thế. Nhiều lý luận loài người còn vấp phải sự kiện lịch sử này. Và chúng ta còn phải kiểm điểm về lòng tin của mình, xem mình có thờ ngẫu tượng naò ở bên cạnh Thiên Chúa hay không (như tiền, tình, quyền…)? Và biết đâu đã không có lúc chúng ta nao núng về niềm tin nơi Thiên Chúa chúng ta thờ? Như vậy chúng ta chưa “gần Nước Thiên Chúa” như người ký lục trong bài Tin Mừng hôm nay đâu.

2. Người Phải Yêu Mến Đồng Loại

Thánh Marcô thuật câu chuyện này xảy ra trong khoảng thời gian giữa ngày Đức Yêsu khải hoàn vào Yêrusalem và hôm Người bị nộp. Đó là thời gian địch thủ tìm cơ hội bắt Người. Họ thay lượt nhau đến gài bẫy, hết các Thượng tế đến các Biệt phái, rồi phe cánh Hêrôđê và những người thuộc bè Sađóc. Hôm nay một ký lục đến hỏi Chúa Yêsu: “Giới răn thứ nhất trên hết là giới răn nào?”. Ông không hỏi giới răn nào “trọng nhất”, để chúng ta nghĩ đó là điều ông thắc mắc thật sự. Là vì ở thời đó luật Dothái có tới 613 khoản, và phân làm những khoản nặng và nhẹ, trọng và tùy; và sự sắp xếp nhiều khi có thể rõ ràng và dứt khoát. Ở đây, dường như người ký lục không muốn đi vào vấn đề chi tiết tỉ mỉ, ông chỉ muốn đánh giá quan điểm của Đức Yêsu, xem Người có “chính thống”, tức là có ở trong và tôn trọng truyền thống của đạo Môsê hay không? Và đó là điều mà các địch thủ với Người muốn biết.

Nhưng họ chỉ phải bẽ bàng; vì Đức Yêsu đã có lần tuyên bố: Người không đến để hủy bỏ Luật pháp dù chỉ là một cái chấm hay một cái phẩy, nhưng là để kiện toàn và hoàn tất. Thế nên không có câu trả lời nào chính thống hơn câu của Người hôm nay: “Giới răn thứ nhất là: hãy nghe, hỡi Israel, Chúa Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Phải yêu mến Người hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”. Người đã đọc lại kinh Thứ luật. Người có thể dừng lại ở đó. Và người ký lục kia nhất định phải thỏa mãn với câu trả lời.

Nhưng Đức Yêsu đã không dừng lại. Người không phải như một người học trò thuộc bài và chưa phải là người bị hạch hỏi. Người muốn đóng vai Thầy dạy muôn dân. Thế nên, Người đã thêm: Thứ đến là ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình. Người cũng chỉ nhắc lại một câu trong sách Lêvi. Không ai có thể bảo Người không chính thống. Nhưng Người đã nhắc lại cho người ta một điều rất quan trọng mà thường khi họ sống đạo mà vẫn quên. Họ tưởng đạo chỉ là nhà thờ, kinh kệ và dâng lễ. Không, đạo còn là yêu mến đồng loại như chính mình tức là yêu người khác như bản thân. Điều này, trong thực tế, nhiều người giữ đạo “rất chính thống” mà vẫn quên và có ý quên vì nó khó giữ. Đức Yêsu không đến để nguyên dạy người ta yêu mến Thiên Chúa. Người còn luôn bảo họ phải thi hành ý muốn của Thiên Chúa là cứu độ trần gian. Hơn nữa Người còn nói rõ không có giới răn nào khác lớn hơn hai việc mến Chúa yêu người này.

Người ký lục tỏ ra rất thông minh, chấp nhận ngay câu trả lời và bài học của Đức Yêsu. Ông còn phụ họa thêm và nói rằng mến Chúa yêu người như vậy “ắt vượt quá các toàn thiêu và lễ tế thay thảy”. Đức Yêsu không thể không mừng khi gặp kẻ hiểu ý Người như vậy. Người tuyên bố: “Ông không xa Nước Thiên Chúa đâu!”

Lời khen này có thể trở thành một câu chất vấn lương tâm chúng ta. Chúng ta có thường coi các hành vi yêu người như toàn thiêu và lễ tế không? Chúng ta vẫn phải thi hành các nhiệm vụ mến Chúa, vì đó là lẽ sống của chúng ta như lời sách Thứ luật hôm nay nói: Đó là giới răn thứ nhất, nhưng thứ đến còn phải yêu mến đồng loại như chính mình, điều mà Đức Yêsu đã đính vào điều răn mến Chúa để làm nên như giới răn của Người. Chúng ta có thi hành không để chứng tỏ mình đang ở trong đạo mới? Để thâm tín thêm, chúng ta hãy đọc tiếp bài thư Hipri.

3. Người Là Vị Thượng Tế Thích Hợp

Tác giả so sánh các Thượng tế đạo cũ với vị Thượng tế đạo mới. Họ thì bị sự chết ngăn cấm lưu tồn mãi mãi; còn Ngài thì tồn tại đời đời nên giữ một tế vụ bất hủ. Đó là sự khác biệt quan trọng. Càng quan trọng hơn nếu ta tìm hiểu sâu về ý nghĩa sự chết theo Thánh Kinh.

Đối với các tác giả thánh, chết không phải chỉ là một hiện tượng thể lý, giết sức sống trong cơ thể, nhưng còn là hậu quả và hình phạt do tội lỗi. Sự chết không những hủy diệt thân xác, nhưng nhất là còn nói lên sự mâu thuẫn cùng cực với Thiên Chúa là sự sống. Chết và sống khác nhau hơn lửa với nước, nên ai đụng vào tử thi tức khắc đã trở nên ô uế, không được đến gần bàn thờ khi chưa chịu thanh tẩy. Chính điểm nay ngăn cấm các Thượng tế đạo cũ còn lưu tồn mãi mãi. Họ không tiếp tục làm tư tế được không những vì sự chết thể lý, nhưng nhất là vì đã trở thành tử thi, họ xa hẳn Thiên Chúa. Còn Đức Kitô thì ngược lại. Chính sự chết đã đưa Người vượt qua về với Thiên Chúa và trở thành vị Thượng tế đời đời, sống luôn mãi để chuyển cầu cho nhân loại.

Tư tưởng trên đây dẫn sang một kết luận khác: tế vụ của các Thượng tế đạo cũ khi họ còn sống cũng không hoàn toàn. Vì muốn hoàn toàn, vị Thượng tế phải có khả năng ở gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho chúng sinh, tức là phải vô tội. Thế mà có ai trong loài người được điều kiện này? Ngược lại Đức Yêsu là Đấng vô tội và vô tì, Người cao siêu vượt các tầng trời, nên Người ở gần Thiên Chúa và có khả năng chuyển cầu cho chúng ta…

Có lẽ đối với chúng ta không cần phải nói thêm về sự khác biệt giữa các Thượng tế đạo cũ và vị Thượng tế đạo mới. Nhưng điều quan trọng hơn cho chúng ta là hãy ghi nhớ bản chất của tế vụ mà Đức Kitô đang thi hành. Người đang ở nơi Thiên Chúa và đứng gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho chúng ta. Người đang nối trời với đất, Thiên Chúa với loài người. Lễ tế của Người vừa để tôn thờ Thiên Chúa vừa để cứu độ chúng ta. Chúng ta giữ đạo của Người, chúng ta vẫn đến nhà thờ dâng lễ và cầu nguyện trong chức tư tế của Người. Lẽ nào chúng ta không nhận ra rằng: một người đạo đức thật như có hai vai phải mang hai nhiệm vụ: mến Chúa và yêu người; phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân?

Vậy nếu chúng ta đã sốt sắng ở nhà thờ đối với Chúa, thì chúng ta hãy nhiệt tình với tha nhân ngoài xã hội. Khẩu hiệu kính Chúa và yêu nước, tốt đời và đẹp đạo có thể được sáng thêm trong phụng vụ hôm nay. Chúng ta hãy tận tâm thi hành trong niềm tin.

Bài 11. GIỚI RĂN QUAN TRỌNG NHẤT
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Sống trên trần gian phải có một tấm lòng. Đó là điều kiện thiết yếu và quan trọng để con người đối xử tốt với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa, con người phải tôn kính, yêu mến Ngài hết linh hồn, hết trí khôn và yêu tha nhân như chính mình. Sách Ngũ Thư tóm gọn hai giới răn đứng đầu trong 613 khoản luật. Các bài đọc Chúa nhật 31 thường niên, năm B sẽ cho chúng ta hiểu đâu là giới luật quan trọng nhất của Đạo Công Giáo.

Yêu là trao hiến, hy sinh chính mình để sống cho người khác.Tình yêu đích thực không dễ dàng như nhiều người lầm tưởng bởi vì chính Chúa đã làm gương cho nhân loại, cho mỗi người về việc hy sinh, xả thân trao hiến :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu mến “ ( Ga 15, 13 ). Tình yêu của Chúa là tình yêu cao vời, tình yêu vô vị lợi. Chết mới nói lên lời. Trên Thập giá Chúa đã trao hiến chính mạng sống mình làm giá chuộc cho mọi người. Tình yêu của Chúa luôn thúc bách chúng ta và hạch hỏi thái độ sống của chúng ta. Tin Mừng của thánh Máccô cho chúng ta hay, một kinh sư đã tới gặp Chúa và hỏi Chúa :” Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều nào đứng đầu ?”. Đức Giêsu trả lời :” Điều răn đứng đầu là : Nghe đây, hỡi ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó “ ( Mc 12, 29-31 ). Đối với con người, sống điều răn thứ nhất là hoàn toàn dành ưu tiên cho Chúa, tất cả hướng về Chúa vì Chúa là gia nghiệp, là thuẫn đỡ cho đời mình, để Chúa chiếm trọn đời mình. Điều răn thứ hai là yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận là mọi người không trừ ai, bởi vì tất cả đều là hiện thân của Chúa. Chỉ trong Chúa chúng ta mới nhận ra anh em của mình là tất cả mọi người chúng ta phải yêu thương. Chúa đã đồng hóa Người với những kẻ khó nghèo, đói, khát, trần truồng vv…Yêu người sẽ gặp Chúa và yêu Chúa sẽ gặp người. Như thế, chúng ta nghiệm ra rằng mọi điều răn, mọi giới luật đều qui chiếu về lòng kính mến Chúa và yêu thương con người. Nếu điều răn kính chúa và yêu người còn còn mang ý nghĩa như thế, thì quả thực nó không còn giá trị gì. Bởi vì, đạo mà Chúa Giêsu thiết lập là đạo tình yêu, lời của Chúa rao giảng là Tin Mừng cứu độ. Tất cả đều gắn kết với Chúa Giêsu qua biến cố Nhập thể của Người. Nên, nói yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương con người là chúng ta nói láo. Chính vì thế, giới kính Chúa, yêu người là hai giới răn nhưng xét cho cùng lại chỉ là một giới răn. Hai mà một, một mà hai là như thế.

Bài Tin Mừng của thánh Máccô nhằm nêu lên một giáo huấn quan trọng trong toàn bộ Phúc Âm. Nó đòi hỏi chúng ta tự vấn lương tâm xem chúng ta đã đối với Thiên Chúa như thế nào và đối anh em ra làm sao ? Tin mừng của thánh Máccô hôm nay cho thấy :” Nếu chúng ta nói kính mến Thiên Chúa mà lại khinh khi anh em “ quả thực chúng ta chỉ là những người nói dối, ba hoa chích chòe. Chúa Giêsu đã trả lời vị kinh sư : giới răn đứng đầu, mối quan tâm số một của người Kitô hữu là tình yêu.

Vâng, trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, vấn đề kính mến Chúa xem ra chúng ta dễ thực hành còn thương anh em xem ra chúng ta dễ bỏ qua một bên. Đời sống Kitô hữu giữ đạo xem ra dễ nhưng đi đến tận cùng của việc giữ đạo là thực hành lời Chúa bằng việc yêu thương tha nhân như chính mình xem ra khó thực hiện.

Lạy Cha,
Thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong…

Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con
(Trích trong Rabbouni).

Bài 12. Mến Chúa yêu người
Lm Đa-minh Trần Đình Nhi

Qua sách Tin Mừng, chúng ta thường gặp thấy những xung đột giữa Chúa Giê-su với nhóm Pha-ri-sêu và các Kinh sư. Tuy nhiên, cũng vẫn có những người Pha-ri-sêu từng là bạn với Chúa và vị kinh sư trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay lại còn là người tán đồng tư tưởng của Người nữa. Ông ca tụng Chúa Giê-su nói hay nói phải. Đổi lại, Chúa Giê-su khẳng định một điều tốt về ông: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Vậy điều gì đã đưa hai người lại với nhau như vậy?

Họ đồng quan điểm về chỗ đứng của hai trong số mười điều răn của Thiên Chúa. Theo câu hỏi của vị kinh sư: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?”, Chúa Giê-su phải trả lời dứt khoát cho ông bằng cách trưng ra chỉ một điều răn thôi. Nhưng Chúa Giê-su không làm như vậy. Trái lại, Người đưa ra một lúc hai điều răn: mến Chúa và yêu người. Quả thực, Chúa Giê-su đã đi ngược lại lối hiểu của Pha-ri-sêu về các điều răn. Họ xếp tầm quan trọng của các điều răn theo con số thứ tự: thứ nhất, thứ hai… Đối với họ, yêu mến Thiên Chúa là điều răn quan trọng nhất, nên họ viết điều răn này vào giấy, bỏ vào cái hộp nhỏ và đeo trước trán (shema) để khỏi quên lề luật này! Còn Chúa Giê-su, Người lấy tình yêu làm tiêu chuẩn để xác định tầm quan trọng của điều răn. Đã cùng là tình yêu, thì không có điều này quan trọng hơn điều kia, vì tình yêu không thể xếp theo thứ tự. Cho nên yêu tha nhân cũng có tầm quan trọng ngang với yêu mến Thiên Chúa, và chính vì thế Chúa Giê-su đã trưng ra luôn hai điều răn để trả lời một câu hỏi đòi phải chọn lựa một điều răn mà thôi. Khi Chúa trả lời như vậy, chúng ta không rõ những người Pha-ri-sêu và các ông kinh sư khác phản ứng ra sao, nhưng riêng vị kinh sư này đã thẳng thắn chấp nhận lối hiểu của Người. Cùng với Chúa Giê-su, ông tin rằng cả hai điều răn này đều “quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Ông đồng ý với lời Chúa Giê-su giảng rằng “nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mát-thêu 5:23-24). Ông đã nhận ra được cốt lõi của các điều răn, đó là tình yêu.

Trước sự khôn ngoan và thẳng thắn của vị kinh sư này, Chúa Giê-su đã mở cánh cửa cho ông khi Người nói: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Người sẵn sàng chỉ cho ông thấy Nước Thiên Chúa là nước của tình yêu thương đích thực, chứ không phải chỉ gồm những lễ nghi và luật lệ cứng ngắc như “gánh nặng chất lên vai người ta”. Nếu điều răn thứ nhất, là chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả con người mình, thì điều răn thứ hai cũng thế, chúng ta phải yêu tha nhân bằng tất cả tấm lòng, chứ không chỉ bằng lời nói môi miệng.

Sống sứ điệp Tin Mừng

Sự kiện Chúa Giê-su và ông kinh sư đồng ý với nhau về cùng một tầm quan trọng của hai điều răn “mến Chúa yêu người” lại là một câu hỏi đòi chúng ta xét lại lối sống yêu thương của chúng ta. Nếu tình yêu là nền tảng của hai điều răn ấy, thì mức độ và cách biểu lộ cũng phải giống nhau. Chúa Giê-su đã cho chúng ta thấy mức độ và cách biểu lộ ấy khi Người dạy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mẫu yêu thương này trở thành thước đo tình yêu của chúng ta, đồng thời cũng là những cột mốc cho thấy chúng ta “không còn xa Nước Thiên Chúa”. Trong Nước ấy, Người Yêu là Chúa Giê-su đang dẫn đầu một nhân loại mới trong lối sống yêu thương. Chúa Giê-su đã sống điều răn thứ nhất, yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực” khi Người vâng lời Chúa Cha, đến trần gian rao giảng Tin Mừng, bằng lòng chịu chết trên thập giá để chu toàn thánh ý Cha. Chúa Giê-su cũng sống trọn vẹn điều răn yêu thương tha nhân bằng cách chia sẻ thân phận con người chúng ta và đã hy sinh mạng sống để chúng ta được làm con cái Thiên Chúa. Quả thực là một lối sống yêu thương của những ai muốn làm công dân của Nước Thiên Chúa. Nếu chúng ta thực sự muốn làm môn đệ Chúa, chúng ta cũng phải yêu thương như Người đã yêu thương vậy!

Bài 13. Lề luật bóp chết con tim
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Các biệt phái ngày xưa họ thường nhân danh lề luật để làm theo ý mình. Lề luật trở thành dụng cụ để người ta thống trị người khác. Lề luật bị lạm dụng đến nỗi không còn bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người mà nhằm bảo vệ quyền lợi cho một nhóm nhỏ lãnh đạo. Lề luật không đưa đến sự an bình, hạnh phúc cho con người nhưng trở thành một gánh nặng, một nỗi sợ hãi cho số đông thấp cổ bé miệng.

Nhân danh lề luật họ răn đe người này, khủng bố người kia. Họ nhân danh Chúa để bôi nhọ người này, rêu rao lỗi lầm người kia. Điều tệ hại nhất là họ có thể nhân danh Chúa, nhân danh lề luật để loại trừ người khác. Cụ thể là những người bị coi là ô uế đều bị loại trừ thẳng tay như: người bệnh phong cùi, người phụ nữ ngoại tình, người vi phạm luật của Chúa mà theo luật đã trở nên ô uế thì đều bị loại ra khỏi sinh hoạt cộng động.

Họ cũng có thể nhân danh Chúa để ném đá, để đóng đinh kẻ đi ngược lại với quan điểm của mình. Lề luật trở thành phương tiện để họ lợi dụng, để họ vu khống, để họ hãm hại người khác. Đã có rất nhiều cái chết oan uổng chỉ vì ý đồ cá nhân. Đã có quá nhiều cái chết cay nghiệt của những người công chính bị hàm oan.

Điều đáng buồn là những người nhân danh lề luật để hãm hại người khác nhưng họ không hề tỏ lòng hối tiếc về hành vi gian ác của mình. Lương tâm họ đã bị lề luật trói buột. Trái tim họ đã bị lề luật làm tê cứng. Lề luật đáng lý giúp cho lương tâm trong sáng và trái tim nhân bản hơn, thế nhưng, vì quá chú trọng lề luật nên họ đã đánh mất đi trái tim yêu thương của con người chỉ còn lại những mưu mô xảo trá.

Cách đây ít năm Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại Thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel”. Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai mầu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay.

Lương tâm của Gilgal Zamir đã bị lề luật làm cho trai cứng. Trái tim của anh đã bị băng giá bởi lề luật mà anh đã được giáo dục. Anh mến Chúa. Anh trung thành với lề luật nhưng anh không được giáo dục để có một trái tim yêu thương. Những người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng hành xử như vậy. Họ nhân danh lề luật. Họ nhân danh Giavê Thiên Chúa để áp đặt và thống trị người khác. Chính họ đã làm cho lề luật trở thành gánh nặng cho dân.

Nhân danh lề luật, những người Biệt phái thời Chúa Giêsu không ngừng dòm ngó rình mò để bắt bẻ Ngài, nhất là những gì có liên quan đến việc tuân giữ ngày Hưu lễ như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng đối với Chúa Giêsu, linh hồn của lề luật chính là tình yêu thương. Con người sống với Chúa và sống với tha nhân là nhờ tình yêu và cho tình yêu. Con người được sống nhờ tình yêu của Chúa nên con người cũng phải biết sống cho tình yêu một cách trọn vẹn: yêu Chúa hết mình và yêu tha nhân như chính mình.

Người Việt Nam thường có câu “sống có lý có tình”. Nếu cuộc sống chung chỉ có lý mà không có tình thì cuộc sống chung đó là một hoả ngục. Người ta chỉ rình mò kết án lẫn nhau. Người ta chỉ dựa theo lý để hành xử sẽ dẫn đến cảnh cá lớn, nuốt cá bé. Cuộc đời sẽ trở thành bãi chiến trường mà kẻ mạnh làm chúa, kẻ yếu làm tôi. Nếu cuộc sống chung chỉ dựa theo lý sẽ dẫn đến sa mạc hoá tình người. Người ta sẽ nại vào lý do này, nại vào lý do kia để từ chối giúp đỡ anh em của mình. Sống phải có tình mới có thể “chín bỏ làm mười”. Sống phải có tình có lý người ta mới quan tâm giúp đỡ nhau, người ta mới sống chân thành và cởi mở, chia sẻ với nhau đến độ “một con người đau cả tàu bỏ cỏ”.

Hôm nay Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến hai vấn đề cốt lõi của cuộc sống đó là: con người có hồn có xác. Con người cần phải có tương quan và bổn phận với Chúa và tha nhân. Mến Chúa phải yêu tha nhân. Mến Chúa mà không yêu tha nhân điều đó hợp lý nhưng không hợp tình. Hợp lý vì con người là thụ tạo của Chúa thì phải thờ phượng và kính mến Chúa. Nhưng con người là hình ảnh Thiên Chúa nên phải yêu mến tha nhân. Ngược lại yêu mến tha nhân mà không kính mến Chúa là vô ơn bất hiếu. Vì sự sống là của Chúa, những gì chúng ta làm được cho tha nhân đều xuất phát từ ân huệ của Chúa nên con người phải thờ phương kính mến Chúa. Yêu mến Chúa phải yêu hình ảnh của Chúa. Vì thế mà thánh Gioan bảo rằng: “ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến tha nhân đó là kẻ nói dối:.

Ước gì mỗi người chúng ta không chỉ yêu Chúa trên môi miệng mà yêu Chúa thật lòng, biết dành thời giờ phụng thờ Chúa và biết dùng khả năng để phục vụ hình ảnh Chúa nơi tha nhân. Amen.

Bài 14. CHÚA NHẬT 31 B TRONG NĂM ĐỨC TIN
Antôn Trần thế Phiệt DCCT

Theo bố cục và diễn tiến trong Tin Mừng Maccô, sự kiện ông kinh sư gặp Đức Yêsu xảy ra sau hôm Đức Yêsu long trọng vào thành Yêrusalem và trước hôm Ngài bị bắt. Tình hình lúc đó và liên hệ giữa các nhóm với Đức Yêsu đang rất căng thẳng. Nhóm Biệt phái, Luật sĩ thì ngày càng thù ghét Ngài hơn, cố rình mò và chờ cơ hội khử trừ Ngài. Một số nhóm khác thì muốn được biết quan điển của Ngài đối với các vấn đề đang tạo mâu thuẫn hay tranh cãi giữa họ với nhau.

Vị kinh sư đến gặp Đức Yêsu lần này vừa muốn biết ý kiến của Chúa vừa để xem Chúa theo chiều hướng nào, Chúa có theo đúng truyền thống đang có trong Dân Chọn hay không. Người ấy hỏi Ngài : “Trong mọi điều răn (613 điều) điều răn nào đứng hàng đầu ?” Đức Yêsu trả lời bằng chính lời kinh mà người Do thái thuộc làu làu và đọc hằng ngày, lấy từ lời dạy của Môsê trong sách Thứ Luật. Lời kinh này cùng với những giáo huấn khác của Môsê đã được Dân Chọn ghi nhớ, trân trọng, chuyển đạt từ đời cha ông sang đời con cháu, tạo thành “truyền thống Môsê” mà điểm nền tảng chính là tin nhận, tuyên xưng Yavê là Thần Linh độc nhất và là Thần Linh không những của Dân Israel, mà còn là của mọi dân tộc, của cả vũ hoàn, ngoài Người ra không có Thần nào khác và con người phải tôn thờ yêu mến Người hết sức lực, hết trí khôn, hết linh hồn.

Rõ ràng qua câu trả lời của Ngài, Đức Yêsu đã chứng tỏ Ngài tôn trọng truyền thống Môsê, và Ngài là một tín hữu chính thống trong Đạo Dothái.

Thế nhưng liền đó, Ngài còn cho thấy Ngài không phải là một cậu học trò thuộc bài và trả lời không vấp váp, mà còn hơn thế, Ngài là vị Thầy của muôn dân. Do đó Ngài thêm giới răn “ Ngươi phải yêu mến đồng loại như chính mình ngươi”, rút từ sách Lêvi. Điểm đặc sắc của Ngài chính là nối kết 2 luật “mến Chúa” và “yêu người” thành 1 luật duy nhất, qua đó Ngài mở ra một hướng mới, đó là mến Chúa phải đi liền với đời sống bác ái, với yêu thương tha nhân – phải nối liền phụng vụ, việc đạo đức, kinh kệ ở nhà thờ, tâm tình mến Chúa trong trí, đôi khi chỉ là lý thuyết…với yêu mến người khác như chính bản thân mình.

Thế là Đức Yêsu vừa thỏa mãn thắc mắc của vị kinh sư, vừa mở ra trước mặt ông một con đường mới, có thể nói thiết lập một “truyền thống vẹn toàn”, một truyền thống có đủ 2 vế (Thiên Chúa và tha nhân), không còn khập khiễng như kẻ chỉ đi bằng một chân. Đó sẽ là “truyền thống” còn vượt hơn cả truyền thống mà giới kinh sư, luật sĩ vẫn dạy người dân của họ.

+ Chúng ta vừa bước vào Năm Đức tin. Nghe các bài Kinh thánh hôm nay

• chúng ta thán phục Đức Yêsu và các tín hữu Đạo Do thái, đã luôn bảo tồn truyền thống của Đạo mình và đời cha không hề xao lãng bổn phận ghi khắc. chuyển đạt truyền thống đó cho đời con, nhờ đó mặc dù đụng phải biết bao thử thách, thăng trầm suốt lịch sử, Đạo của họ vẫn tồn tại… – để từ đó, chính chúng ta cũng ý thức bổn phận quan trọng của mình là lo sống đạo vững vàng và dạy giáo lý cho con cháu, để chúng hiểu về Chúa và nối tiếp chúng ta sống đạo, truyền đạo

• thứ hai, khi nhắc lại “truyền thống độc thần” của Đạo Do thái, chúng ta tự hỏi xem hiện nay, chúng ta có kính thờ Chúa một cách chân thành và hết lòng không, hay là chúng ta đang thờ cả những thần khác như tiền bạc, tình, chức quyền

• thứ ba, trong việc sống đức tin, chúng ta có biết vừa sốt sắng trong nhà thờ và siêng năng trong các việc đạo đức, lắm khi đọc kinh rang rang lâu giờ, vừa quảng đại yêu thương giúp đỡ anh chị em khác như Chúa nối kết hai luật “mến Chúa và yêu người” thành một hay không ?

Xin Chúa Thánh Thần và Đức Yêsu, vị Thượng Tế đời đời của Đạo Mới, nâng đỡ chúng ta.

Bài 15. Việc làm của Đức tin là Đức ái
Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trong Do Thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do Thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất? Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay.Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Đạo Do Thái dựa trên 10 điều răn. Trải qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, có một luật sĩ đã đến hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”. Người đáp: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mc 12,30-31). Giới răn thứ nhất trích trong sách Đệ Nhị luật 6, 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật 19,18. Như vậy Chúa Giêsu đã nâng luật yêu người ngang với luật mến Chúa. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất: “Mến Chúa yêu người”.

1. Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự

Thiên Chúa là chủ tể trời đất. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống và là cùng đích của muôn loài muôn vật.

Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái.

Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Thiên Chúa là quan trọng nhất của con người.

Còn chúng ta, điều gì quan trọng nhất ?

Có người cho đó là tiền: có tiền mua tiên cũng được. Mọi người đều cần tiền. Đồng tiền ảnh hưởng trên mọi sinh hoạt, chi phối mọi sinh hoạt, thậm chí còn là mục đích của mọi sinh hoạt. Điều quan trọng hơn cả là làm sao kiếm được nhiều tiền, càng nhiều càng tốt. Tiền bạc là thước đo sự thành công ở đời.

Có người cho đó là địa vị: làm thế nào để có chỗ đứng trong xã hội, được người khác kính trọng, phục tùng.

Người khác cho đó là tình yêu: chỉ có tình yêu mới làm cho người ta hạnh phúc. Đối với đôi nam nữ đang yêu thì tình yêu là quan trọng nhất.

Nhiều người cho đó là học vấn: đối với học sinh hay sinh viên, đỗ đạt là quan trọng nhất.

Đối với phần đông những người trưởng thành, thì điều quan trọng là vợ con, là gia đình, là nghề nghiệp, là nơi ăn chốn ở.

Thực tế ở đời có rất nhiều điều quan trọng, tuỳ ở hoàn cảnh và tuỳ ở từng người. Nhưng nếu điều gì cũng quan trọng nhất thì cuối cùng chẳng có gì là nhất cả, mọi sự đều tương đối. Mọi sự đều tương đối, nhưng mọi sự đều quan trọng, kể cả niềm tin tôn giáo, kể cả Chúa. Đó là não trạng của con người thời nay, là cám dỗ của thời đại.

Người tin Chúa và theo Chúa, cũng có người nghĩ như vậy: tiền quan trọng, mà Chúa cũng quan trọng. Có những người khá hơn, trên lý thuyết vẫn cho Chúa là quan trọng nhất, nhưng trong thực tế có những lúc tiền bạc, tình yêu và thành công ở đời cũng quan trọng như Chúa.

Nhiều người nghĩ rằng ở thế gian này không có gì là duy nhất, kể cả những điều loài người thường cho là cao quý như là chân thiện mỹ chẳng hạn. Có những điều đối với người này là chân lý, đối với người kia lại là sai lầm; đối với người này là tốt, đối người kia là không; đối với một số người là đẹp, đối với những người khác là xấu. Không có gì tuyệt đối ở trần gian. Cám dỗ tương đối hoá mọi sự là cám dỗ lớn nhất của thời đại chúng ta. Cám dỗ này rất nguy hiểm. Dễ sa ngã vì con người không muốn bị ràng buộc và hướng chiều về hưởng thụ.

Thế gian không có gì là duy nhất, không có gì là tuyệt đối.

Thiên Chúa là Siêu Việt, là Vĩnh Hằng. Mọi sự đều qua đi. Chỉ có Chúa mới là quan trọng nhất, chỉ có Chúa mới là Tuyệt Đối. Do đó chúng ta được mời gọi yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực của mình.

Chúa Giêsu đã lập lại lời kêu gọi đó, khi trả lời cho người thông luật muốn hỏi trong các giới răn điều nào quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa là điều quan trọng nhất.

2. Yêu tha nhân như chính mình

Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy” (1Ga 4,20); ” Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn ở trong bóng tối”(1 Ga 2, 9 ).

Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.

Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật.

Lề luật của Chúa cô đọng trong một thái độ là yêu mến.Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật.Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. Vì “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).

3. Việc làm của Đức tin là Đức ái

Thánh Giacôbê nói một câu bất hủ: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). “Việc làm” mà Thánh Tông Đồ nói đến là thực hành bác ái. Thánh Phaolô ca ngợi đức mến: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1).

Đức tin và Đức mến liên hệ mật thiết với nhau.

Trong Tông thư “Cánh Cửa Đức Tin”, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết: Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở : “Vì vậy giờ đây còn lại ba điều là đức tin, đức cậy và đức mến. Nhưng lớn hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,13). Và Thánh Giacôbê Tông Đồ, với những lời càng mạnh hơn nữa, luôn thúc đẩy các tín hữu Kitô, quả quyết rằng : “Hỡi anh chị em, nếu một người nói mình có đức tin mà lại không có việc làm thì ích gì ? Đức tin ấy có thể cứu họ được không ? Nếu một người anh em, chị em, không có y phục và lương thực hằng ngày và một người trong anh chị em nói : “Hãy đi bình an, hãy sưởi ấm và ăn no” nhưng lại không cho họ những gì cần thiết cho thân thể họ, thì hỏi có ích gì ? Đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm đi kèm, thì tự nó là đức tin chết. Trái lại một người có thể nói : “Anh có đức tin và tôi có việc làm; hãy tỏ cho tôi đức tin không có việc làm của anh, và tôi, qua việc làm tôi chứng tỏ cho anh đức tin của tôi” (Gc 2,14-18).

Đức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Có nhiều Kitô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ những người lẻ loi, bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người đầu tiên cần đi tới và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi người ấy có phản ánh khuôn mặt của Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta. “Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy” (Mt 25,40) : những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và là một lời mời gọi trường kỳ hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta. Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trong cuộc sống. Được đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn sự dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi “trời mới đất mới, trong đó có công lý cư ngụ” (2 Pr 3,13 ; x. Kh 21,1). (Porta Fidei, Số 14).

Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN nói về mối liên hệ đức tin và đức mến: Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Số 7).

Năm Đức Tin sống Đức Ái, chúng ta cùng chung tay với Chúa Giêsu thực hiện Năm Hồng Ân của Thiên Chúa (Lc 4,19).

Bài 16. LUẬT TÌNH YÊU
Anna Mai, CSsr

Luật! Con người sinh ra ai cũng phải ở trong chế độ của Lề Luật. Bên cạnh những luật của Xã Hội, còn đó những luật của Giáo Hội.

Xã Hội cũng như Giáo Hội, dĩ nhiên trong những luật thì có những luật quan trọng, có những luật ít quan trọng và có những luật buộc tối quan trọng.

Ở Xã Hội, người ta, dĩ nhiên cũng sẽ quan tâm những luật tối trọng để họ giữ. Đơn giản như là trộm cắp và giết người là những tội sẽ đưa người ta đến cái tội nặng nhất.

Hôm nay, một người trong nhóm luật sĩ cũng đến và hỏi Chúa Giêsu về điều răn nào là trọng nhất trong giới luật. Chúa Giêsu trả lời ngay không một chút ngần ngại: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”.

Ông luật sĩ này khá thông luật và hài hước: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”.

Chúa Giêsu thấy thế và cũng hài hước nói luôn cho xong: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”.

Câu chuyện hay nói khác đi là lời đối đáp giữa ông luật sĩ và Chúa Giêsu hôm nay không phải là chuyện cũ mà là chuyện từ ngàn xưa, xưa ơi là xưa và xưa thật là xưa.

Trở về với trang sách Đệ Nhị Luật, chúng ta cũng thấy cái luật này. Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng: “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài.

”Hỡi Israel, hãy nghe đây mà tuân hành các điều Chúa truyền dạy cho ngươi, thì ngươi được phần phúc và sinh sản ra nhiều hơn, như lời Chúa là Thiên Chúa tổ phụ ngươi đã hứa ban cho ngươi phần đất chảy sữa và mật.

”Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng”.

Không chỉ Môsê mà nhiều người đại diện cho Chúa nói cho dân Chúa nghe huấn lệnh của Chúa nhưng rồi có ai chịu nghe đâu.

Nếu như họ chịu nghe lời của Thiên Chúa thì ngày nay đâu có như thế này.

Và, chúng ta cũng dễ dàng thấy cái giới luật quan trọng nhất mà Chúa Giêsu nói cho người luật sĩ ngày hôm nay đó nó như thế nào trong xã hội hay nói gần hơn là trong chính Giáo Hội.

Cũng chẳng dám trách, cũng chẳng dám oán và cũng chẳng dám lên án. Cứ nhìn vào thực tế sẽ thấy được những thực trạng hết sức đau lòng.

Yêu Chúa? Nói là yêu Chúa đó nhưng thử nhé, nói thì hơi đụng chạm nhưng cứ phải nói vì sự thật thì nó đau lòng và thuốc đắng nó mới dã tật.

Ngày hôm nay, người Kitô hữu dành cho Thiên Chúa mà luôn luôn mở miệng ra là mình tin, mình yêu đó mỗi ngày được bao nhiêu giờ trong cái quỹ thời gian mà Chúa cho đó. Có chăng thì luật đưa ra không dám bỏ là phải giữ Lễ ngày Chúa nhật chứ không thì chắc cũng chẳng thấy mặt mũi đâu cả. Và, chỉ có một ngày Chúa nhật thôi để đến với Chúa đó nhưng đến có trọn vẹn hay không hay là đến với lòng động lòng lo? Lo rằng là chiều nay phải đi ăn cái gì, đi ăn nhà hàng nào … lo đủ thứ chuyện.

Dĩ nhiên, cần lo cho thân xác nhưng rồi cái quỹ thời gian và tâm tình dành cho Chúa còn được bao nhiêu.

Cũng không ngạc nhiên lắm khi nhìn thấy hình ảnh của những người đi lễ theo kiểu dạo dòng, đạo gốc … dòng là dòng dòng ngoài sân nhà thờ, gốc là gốc cây hay là lễ vọng. Đứng từ ngoài đường nhìn vào và tự nhủ rằng mình đã đi Lễ rồi. Yêu Chúa là như thế sao? Hay là, hay là còn bi đát hơn nữa là khi điều khiển Chúa không được như lòng mong ước thì quay đi tìm thầy này, bà kia linh hơn Chúa, thầy này bà kia cho ơn nhiều hơn Chúa cho.

Thế đó! một lòng yêu mến Chúa thật sự xin gửi đến suy nghĩ của mỗi người.

Yêu anh chị em đồng loại. Ngày hôm nay, chia cái động từ này hơi bị khó. Hết rồi cái tình cảm mà người ta dành cho nhau rồi. Ai ai cũng khư khư giữ lấy những cái gì của riêng mình để rồi thấy cuộc sống nó làm sao đó.

Nói đến đây cũng nhớ lại những ngày Tết. Ngày xưa, ngày Tết người ta dành thời gian đến nhà nhau và chúc Tết nhau thật chân tình. Và, cứ hết nhà này đến nhà kia đậm cái tình người.

Tết, ngày nay là người ta phải chọn cho mình cái tour du lịch nào đó trùng vào những ngày Tết để đi khỏi nhà, bỏ hết tất cả những tình nghĩa thân thương lại.

Một lòng yêu mến Chúa và lòng yêu mến anh em như thế nào chỉ có mỗi người mới lượng giá được.

Mình sống, mình chẳng yêu Chúa và cũng chẳng mến anh em. Thế mà lạ! đụng chuyện đến là trách Chúa thế này thế kia và giận anh em là tại sao anh em bỏ rơi mình, không nâng đỡ mình, không lo lắng cho mình.

Trước khi trách Chúa, trước khi trách anh chị em đồng loại, nên chăng phải kiểm duyệt lại đời sống của mình xem rằng mình đã sống tình yêu mến Chúa và anh chị em đồng loại như thế nào.

Bài 17. Để yêu mến Chúa
Lm Phạm Quốc Hưng

Theo truyền thống Do thái, Môsê nhận được 613 khoản luật từ Thiên Chúa trên núi Sinai; gồm 365 khoản luật tương ứng với số ngày trong một năm dương lịch và 248 khoản luật tương ứng với số các thế hệ con người. Công việc của luật sĩ là nghiên cứu bàn thảo về tầm quan trọng của các khoản luật khác nhau và giúp dân chúng áp dụng vào đời sống của họ. Người khôn ngoan là người nhận biết mức trọng khinh của từng khoản luật. Vậy nên người luật sĩ trong Tin Mừng hôm nay đã tỏ ra thật khôn ngoan khi biết hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” (Mc 12:28b).

Khi trả lời, Chúa Giêsu đã trích dẫn lời Môsê trong sách Đệ Nhị Luật, được công bố trong bài đọc một hôm nay: “Giới răn trọng nhất là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Mc 12:29-30 ); và Người cũng thêm vào lời trong sách Lêvi (19:18): “Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó” (Mc 12:31). Thực ra, chữ “tha nhân” trong sách Lêvi được hiểu là người đồng bào Do thái. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu muốn mở rộng để bao gồm mọi người. Như vậy, Chúa muốn dạy rằng lòng mến Chúa gắn liền với đức yêu người làm thành một giới răn duy nhất, không thể chia lìa.

Khi trích dẫn sách Đệ Nhị Luật như thế, Chúa Giêsu tái khẳng định sự chân thực của đức tin vào Thiên Chúa duy nhất của Cựu Ước. Thật vậy, câu ngắn gọn: “Giới răn trọng nhất là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất” (Mc 12:29 & Đnl 6:4) chứa đựng đức tin chân thực của Do thái giáo, khẳng định tính duy nhất và tuyệt đối của Thiên Chúa. Câu này thường được gọi là shema có gốc từ động từ “hãy nghe” trong câu ấy. Tầm quan trọng của giới răn này được nhận thấy nơi lời căn dặn tiếp theo của Môsê: “Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi tạc vào lòng.

Anh em phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy, phải buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu, phải viết lên khung cửa nhà anh em và lên cửa thành của anh em” (Đnl 6:6-9).

Một điều Chúa Giêsu thêm vào ở đây và cũng được gặp thấy trong Tin Mừng theo Thánh Matthêu (22:37) và Luca (10:27) là chúng ta phải yêu mến Chúa “hết trí khôn”. Đây là điều không gặp thấy trong sách Đệ Nhị Luật (6:5). Chi tiết này khiến chúng ta nhớ đến một câu nói thường nghe thấy trong truyền thống dân Việt: “vô tri bất mộ”, không biết thì không mến. Nếu chúng ta chưa thực sự mến Chúa, hay lòng yêu mến của chúng ta dành cho Chúa còn quá yếu đuối tầm thường; đó là vì chúng ta thực sự chưa biết Chúa cho đủ hay biết một cách thiếu sót hay lệch lạc về Chúa. Nếu chúng ta thực sự biết Chúa đáng yêu chừng nào, biết Chúa yêu mến chúng ta chừng nào, và biết chúng ta sẽ hạnh phúc chừng nào nếu chúng ta thực sự yêu mến Chúa; chắc chắn chúng ta sẽ có thể yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, đúng như Chúa truyền dạy (Mc 12:30). Đó là lý do khiến Thánh Augustinô thiết tha cầu xin Chúa: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.

Các thánh là những người nhận biết tầm quan trọng tuyệt đối của giới răn trọng nhất mà Chúa Giêsu đã ân cần thương dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay. Đó là lý do khiến Thánh Augustinô tuyên bố: “Cứ yêu (Chúa) đi, rồi làm gì thì làm!” Để mở đầu tác phẩm thời danh Dẫn Đường Mến Chúa, Thánh Anphong Maria Liguori xác định: “Trót bản tính sự thánh và sự trọn lành ở tại sự yêu mến Chúa Giêsu là Chúa ta.” Ngài còn trích dẫn lời Thánh Phanxicô de Sale: “Trong đàng nhân đức biết bao nhiêu kẻ lầm vì cho sự trọn lành ở tại ăn ở khổ hạnh, tại đọc kinh cho nhiều, tại năng chịu các phép bí tích, hay tại bố thí cho kẻ khó khăn; nghĩ thế là lầm cả, vì chính gốc tích sự trọn lành là mến Chúa hết lòng. Thánh Phaolô nói rằng: Tiên vàn phải có đức mến đã, vì đức ấy là dây ràng buộc sự trọn lành”.

Cha Thánh Anphong còn dựa vào giáo huấn của Thánh Tôma Aquinô và Cha Tôlêrê chỉ ra năm phương thế sau giúp chúng ta có thể mến Chúa trọn hảo:

1. Trí khôn phải năng tưởng nhớ đến các ơn chung, ơn riêng Chúa ban cho ta bấy lâu

2. Phải suy Chúa lòng lành vô cùng hằng lo lắng làm ơn lành cho ta. Người hằng yêu ta liên, Người chỉ xin ta một điều là mến Người mà thôi

3. Phải ra sức lánh hết mọi sự lỗi có thể làm mất lòng Người

4. Phải từ bỏ mọi sự đời này là của cải, chức quyền, sự vui sướng xác thịt, hay có dùng cũng như không vậy

5. Năng suy gẫm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ của tình yêu mỹ diệu. Xin Mẹ giúp con và cùng con yêu mến Chúa, hôm nay và mãi mãi. Amen.

Bài 18. NHÃN HIỆU CỦA NGƯỜI TÍN HỮU
Ptế: GB Maria Định Nguyễn

* Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi và ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Mc 12, 28-34)

* Ca dao: Yêu nhau trăm sự chẳng nề,

Một tram chỗ lệch cũng kê cho bằng.

A- Dấu hiệu mến Chúa yêu người: Để biết tôi có lòng mến Chúa là yêu thương người anh em. Vì nếu mến Chúa mà ghét người anh em là nói dối, gia đình thiếu tình yêu sẽ là nhà tù và xã hội sẽ là địa ngục.

Lời Chúa: “Người ta sẽ cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con có lòng thương yêu nhau” (Ga 13, 35).

1/ Dấu hiệu bề ngoài: Tôi đeo ảnh tượng, làm dấu thánh giá, đọc kinh, đi nhà thờ để giữ Luật Hội Thánh là việc tốt; nhưng nó chỉ là bộ đồng phục đẹp mắt của người Công giáo thôi, chưa phải là người Tín hữu Kitô đích thực, chân chính. Chúa nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các điều răn của Thầy. (Ga 14, 15)

2/ Đến ngày sau hết: Chúa chỉ hỏi tôi về việc bác ái, chứ không hỏi tôi đã đi nhà thờ mấy lần, đọc kinh bao nhiêu? Cho nên tôi đừng lấy đó làm đủ và cho mình đã giữ đạo rồi. Chúa sẽ hỏi: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừ hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi… Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn, ta khát các ngươi đã cho uống,… Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc.” (Mt 25,34-35)

3/ Bác ái về vật chất thì dễ: An ủi, cầu nguyện, giúp nhau tiền bạc, của cải, quần áo v.v…, bạn và tôi có thễ làm dễ dàng.

Ca dao tục ngụ có câu: Bánh ú đi, bánh quy lại – hay là: ông có chân giò, bà thò chai rượu – hoặc: Lá lành đùm lá rách.

Khi làm ơn ta không cần đáp trả: như thiên tai, bão lớn đang xảy ra như bão Sandy chẳng hạn: Một miếng khi đói bằng một gói khi no.

Hoặc là: Làm ơn há dễ chờ người trả ơn.

4/ Bác ái Tâm linh mới khó:Tình yêu cao quý nhất vẫn là sẵn sàng chết vì người mình yêu, như Đức Giesu đã làm gương trên Thập giá:

Chúa nói: Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thuơng anh em. Không có tình yêu thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Ga 15, 12-13)

Ca dao: Yêu anh tâm trí hao mòn,

Yê anh đến chết vẫn còn yêu anh.

*Kinh nghiệm Sống về Nhẫn nhục, tha thứ cho người làm hại mình về tinh thần thật khó biết bao! Chỉ có Thánh Linh dẫn dắt trong Lời của Chúa mới làm cho bạn và tôi thực hành được.

* Có một người bạn tôi chia sẻ như sau: Khi người ta bỏ vạ cáo gian, nói xấu mình cho người khác biêt điều mình không có, mới thật là đau khổ đến thâm gan tím ruột. Bạn đã gặp phải hay có kinh nghiệm đó chưa ? Nếu tôi không có sức mạnh của Lời Chúa và cầu nguyện nhờ quyền năng của Thánh Linh giúp sức, tôi sẽ tấn công lại họ bằng đủ mọi điều độc ác còn tệ hại hơn họ nữa.

Nhưng khi cầu nguyện rồi, tôi đã yêu thương họ được, vì: “Thắng mình là thắng ba vạn quân.”Nên tôi đã bắt chước Chúa là tha thứ cho họ như Chúa đã tha trên thập giá. Khi làm như vậy là tôi đã gặp được Chúa, có bình an ngay và có Thiên đàng ngay hôm nay !

* Câu Danh ngôn thật hay: “cách trả thù hay nhất là tha thứ”.

B- Câu Kinh Thánh đánh động tôi Chọn làm Châm ngôn Sống:

“NGƯƠI PHẢI YÊU NGƯỜI THÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH”

* You shall love your neighbor as yourself (Mc 12, 31)

C- Bạn và tôi cùng Sống lời Cầu nguyện: (Prayer in Action)

Lạy Cha, Đức Giê-su đã dạy: “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.”. Thế mà bấy lâu nay con chỉ mến Chúa yêu người ngoài môi miệng, chỉ giữ đạo hình thức, lễ nghi bề ngoài, không thực hành yêu thương bằng nhịn nhục và tha thứ. Con đã quên Lời Chúa dạy: “Ta chán ngấy các lễ lạc, ngày đại hội của các ngươi, Ta cần tình yêu chứ không cần hy lễ. Nhờ ơn Chúa, con quyết tâm thay đồi để mến Chúa và yêu thương tha nhân bằng việc làm. Nhờ Đức Kito… Amen.

“Chúa phải được lớn lên, còn tôi nhỏ đi.” (Ga 3, 30)

Nguon Lamhong.org

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Đầu năm dâng Mẹ lời kinh - Mừng Xuân mới đến tâm tình mẹ con - Bao năm an mạnh xác hồn - Mẹ Hằng Cứu Giúp muôn vàn tri ân - Nguyện xin ân thánh đổ tràn - Trên đoàn con Mẹ gian trần tha phương/31 Tháng Giêng 2014(Xem: 2431)/
...tôi nghĩ quà cho Chuá Hài Đồng là những gì mà mọi người chuẩn bị cho mùa Giáng sinh chung quanh những hang đá là "ý nghĩa" rồi!... cuối cùng tôi mới biết là tôi đã thua xa các chú mục đồng của 2000 năm trước, họ chẳng có gì trong tay, ngoài vài chục con bò, con lừa
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG, NĂM C Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa Lời Chúa: Gr 33,14-16; 1Tx 3,12–4,2; Lc 21,25-28.34-36
Khám phá những qui luật, điều khó hiểu, bí mật là những tố chất cần có của những nhà tri thức, học giả, những con người may mắn sở hữu các bộ óc có chỉ số thông minh cao. Điều này không những đúng trong khoa học mà còn cả trong tôn giáo. Có hai mẫu truyện sau minh họa cho ý trên...
Lá xanh hay lá vàng có thể “rụng” bất kỳ lúc nào, dù gió to hay gió thoảng; trái xanh hay trái chín cũng có thể được (hay “bị”) người ta “hái” bất cứ lúc nào, dù sáng hay chiều. Không ai muốn nói đến sự chết.
(1) Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. (2) Người mở miệng dạy họ rằng: (3) "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. (4) Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. (5) Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an./post 01 Tháng Mười Một 2016 (Xem: 938)/
ĐTC PHANXICÔ: TỰ DO XUẤT PHÁT TỪ TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÀ LỚN LÊN TRONG TÌNH BÁC ÁI
Không có Ngài đời trở nên trống vắng- Lúc buồn vui hay lúc đơn côi- Chẳng có gì giữa đất trời- Để hồn con nương tựa- Không có Ngài lòng con hóa tối đen- Chẳng có sao đêm chẳng một ánh đèn-Không có Ngài là không có tất cả- Vì chính Ngài: Thượng Đế, nguồn Tình Yêu/09 Tháng Ba 2014 (Xem: 2433) /
Trên cõi đời này, chắc hẳn không ai được sinh ra mà không do sự mang nặng đẻ đau của một bà Mẹ, người Mẹ thực sự là hiện thân của tình yêu thương, người Mẹ như là một tổ ấm, như là một cái nôi từ khi bào thai mới tượng hình trong lòng Mẹ./22 Tháng Tám 2013(Xem: 6491)/
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN, NĂM B Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa Lời Chúa: Is 53,10-11; Dt 4,14-16; Mc 10,35-45
Bảo Trợ