- Thánh Anrê TRẦN AN DŨNG LẠC, Linh mục (1795-1839)
- Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông (thuông), Trùm Họ (1790-1855)
- Thánh Anrê Trần Văn Trông, Quân Nhân (1814-1835)
- Thánh Anrê TƯỜNG, Vinh Sơn TƯƠNG, Đaminh MẠO, Đaminh NGUYÊN, Đaminh NHI
- Thánh Antôn NGUYỄN ĐÍCH, Trùm họ (1769-1838)
- Thánh Antôn NGUYỄN HỮU QUỲNH (Năm), Trùm họ (1768-1840)
- Thánh Anê LÊ THỊ THÀNH (bà thánh Đê) (1781-1841)
- Thánh Augustinô SCHOEFFLER ĐÔNG, Linh mục thừa sai Paris (1822-1851)
- Thánh Augustinô PHAN VIẾT HUY, Nicolas BÙI ĐỨC THỂ, Đaminh ĐINH ĐẠT
- Thánh Phanxicô Xaviê HÀ TRỌNG MẬU, Đaminh BÙI VĂN ÚY, Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI, Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ, Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH
- Thánh Bênadô VŨ VĂN DUỆ, Linh mục (1755-1838)
- Thánh Ignatiô DELGADO Y, Giám mục dòng Đaminh (1762-1838)
- Thánh Đaminh CẨM, Linh mục dòng Đaminh (?-1859)
- Thánh Augustinô PHAN VIẾT HUY, Nicolas BÙI ĐỨC THỂ, Đaminh ĐINH ĐẠT
- Thánh Đaminh NGUYỄN VĂN HẠNH, Linh mục dòng Đaminh (1772-1838)
- Thánh Đaminh HUYÊN (1817-1862) và Đaminh TOẠI (1812-1862), Ngư phủ
- Thánh Luca PHẠM TRỌNG THÌN, Đaminh PHẠM TRỌNG KHẢM, Giuse PHẠM TRỌNG TẢ
- Thánh Anrê TƯỜNG, Vinh Sơn TƯƠNG, Đaminh MẠO, Đaminh NGUYÊN, Đaminh NHI
- Thánh Đaminh NINH, Nông dân (1841 - 1862)
- Thánh Đaminh HUYÊN (1817-1862) và Đaminh TOẠI (1812-1862), Ngư phủ
- Thánh Đaminh TRẠCH, Linh mục dòng Đaminh (1793-1840)
- Thánh Đaminh VŨ ĐÌNH TƯỚC, Linh mục dòng Đaminh (1775-1839)
- Thánh Phanxicô Xaviê HÀ TRỌNG MẬU, Đaminh BÙI VĂN ÚY, Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI, Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ, Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH
- Thánh Đaminh NGUYỄN VĂN XUYÊN, Linh mục dòng Đaminh (1786-1839)
- Thánh Đaminh HENARES MINH (XUÂN), Giám mục dòng Đaminh (1765-1838)
- Thánh Emmanuel LÊ VĂN PHỤNG, Trùm họ (1796-1859)
- Thánh Emmanuel NGUYỄN VĂN TRIỆU, Linh mục (1756-1798)
- Thánh Giacôbê ĐỖ MAI NĂM, Linh mục (1781-1838)
- Thánh Jeronimô HEMOSILLA VỌNG (LIÊM), Giám mục Dòng Đaminh (1800 -1861)
- Thánh Martinô THỌ, Gioan Baotixita CỎN
- Thánh Phaolô PHẠM KHẮC KHOAN, Phêrô NGUYỄN VĂN HIẾU, Gioan Baotixita ĐINH VĂN THÀNH
- Thánh Gioan ĐẠT, linh mục (1765-1798)
- No Title
- Thánh Gioan ĐOÀN TRINH HOAN, Linh mục (1798 - 1861)
- Thánh Gioan Louis BONNARD HƯƠNG, Linh mục thừa sai Paris (1824 -1852)
- Thánh Gioan CHARLES CORNAY TÂN, Linh mục thừa sai Paris (1809-1837)
- Thánh Gioan Théophane VÉNARD VEN, Linh Mục Thừa sai Paris (1829-1861)
- Thánh Giuse MARCHAND DU, Linh mục thừa sai Paris (1803-1835)
- Thánh Giuse HOÀNG LƯƠNG CẢNH, Trùm họ dòng Đaminh (1763-1838)
- Thánh Giuse FERNANDEZ HIỀN, Linh Mục dòng Đaminh (1775-1838)
- Thánh Giuse DIAZ SANJURJO AN, Giám mục dòng Đaminh (1818-1857)
- Thánh Giuse NGUYỄN DUY KHANG, Thày Giảng dòng ba Đaminh (1832-1861)
- Thánh Giuse NGUYỄN VĂN LỰU, Trùm họ (1790 -1854)
- Thánh Giuse NGUYỄN ĐÌNH NGHI, Phaolô NGUYỄN NGÂN, Martinô TẠ ĐỨC THỊNH
- Thánh Luca PHẠM TRỌNG THÌN, Đaminh PHẠM TRỌNG KHẢM, Giuse PHẠM TRỌNG TẢ
- Thánh Giuse LÊ ĐĂNG THỊ, Cai đội (1825-1860)
- Thánh Giuse TUÂN (HOAN), Linh mục dòng Đaminh (1811-1861)
- Thánh Giuse TÚC, Giáo dân (1843-1862)
- Thánh Giuse NGUYỄN ĐÌNH UYỂN, Thày giảng dòng Đaminh (1775-1838)
- Thánh Giuse ĐẶNG ĐÌNH VIÊN, Linh mục (1758-1838)
- Thánh Jacintô CASTANEDA GIA, Linh mục dòng Đaminh (1743-1773)
- Thánh Laurensô NGÔN, Nông dân (1840 - 1862)
- Thánh Luca VŨ BÁ LOAN, Linh mục (1756-1840)
- Thánh Luca PHẠM TRỌNG THÌN, Đaminh PHẠM TRỌNG KHẢM, Giuse PHẠM TRỌNG TẢ
- Thánh Matthêu NGUYỄN VĂN PHƯỢNG, Trùm Họ (1808 - 1861)
- Thánh Mátthêu ALONSO LICINIANA ĐẬU, Linh Mục dòng Đaminh (1702-1745)
- Thánh Matthêu LÊ VĂN GẪM, Thương Gia (1813 - 1847)
- Thánh Giuse NGUYỄN ĐÌNH NGHI, Phaolô NGUYỄN NGÂN, Martinô TẠ ĐỨC THỊNH
- Thánh Martinô THỌ, Gioan Baotixita CỎN
- Thánh Micae HỒ ĐÌNH HY, Quan Thái bộc (1808 - 1857)
- Thánh Micae NGUYỄN HUY MỸ, Lý trưởng (1804-1838)
- Thánh Augustinô PHAN VIẾT HUY, Nicolas BÙI ĐỨC THỂ, Đaminh ĐINH ĐẠT
- Thánh Phanxicô ĐỖ VĂN CHIỂU, Thày giảng dòng ba Đaminh (1797-1838)
- Thánh Isidôrô GAGELIN KÍNH, Linh mục Thừa Sai Paris (1799-1833)
- Thánh Phanxicô FEDERICH TẾ, Linh Mục dòng Đaminh (1702-1745)
- Thánh Phanxicô TRẦN VĂN TRUNG, Cai đội (1825-1858)
- Thánh Phanxicô NGUYỄN CẦN, Thày giảng (1803-1837)
- Thánh Phanxicô Xaviê HÀ TRỌNG MẬU, Đaminh BÙI VĂN ÚY, Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI, Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ, Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH
- Thánh Phaolô TỐNG VIẾT BƯỜNG, Quan thị vệ (1773-1833)
- Thánh Phaolô ĐỔNG (Dương), Thủ bạ (1802-1862)
- Thánh Phaolô HẠNH, Giáo dân (1827 - 1859)
- Thánh Phaolô PHẠM KHẮC KHOAN, Phêrô NGUYỄN VĂN HIẾU, Gioan Baotixita ĐINH VĂN THÀNH
- Thánh Phaolô LÊ VĂN LỘC, Linh mục (1830-1859)
- Thánh Phêrô VŨ TRUẬT, Phêrô TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG, Phaolô NGUYỄN VĂN MỸ
- Thánh Giuse NGUYỄN ĐÌNH NGHI, Phaolô NGUYỄN NGÂN, Martinô TẠ ĐỨC THỊNH
- Thánh Phaolô LÊ BẢO TỊNH, Linh mục (1793-1857)
- Thánh Phêrô Phanxicô NÉRON BẮC, Linh mục Thừa sai Paris (1818-1860)
- Thánh Phêrô ALMATÔ BÌNH, Linh mục dòng Đaminh (1831-1861)
- Thánh Phêrô BORIE CAO, Giám mục thừa sai Paris (1808-1838)
- Thánh Phêrô ĐINH VĂN DŨNG (1800-1862) và Phêrô ĐINH VĂN THUẦN (1800-1862), Ngư phủ
- Thánh Phêrô ĐA, Thợ mộc (1802-1862)
- Thánh Phêrô VŨ TRUẬT, Phêrô TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG, Phaolô NGUYỄN VĂN MỸ
- Thánh Phaolô PHẠM KHẮC KHOAN, Phêrô NGUYỄN VĂN HIẾU, Gioan Baotixita ĐINH VĂN THÀNH
- Ngày 28 Tháng 04 - Thánh Phaolô PHẠM KHẮC KHOAN, Linh mục ( 1771-1840); Thánh Phêrô NGUYỄN VĂN HIẾU, Thày Giảng (1777-1840); Thánh Gioan Baotixita ĐINH VĂN THÀNH, Thày giảng(1796-1840)
- Thánh Phêrô VŨ ĐĂNG KHOA, Linh mục (1790-1838)
- Thánh Phêrô NGUYỄN VĂN LỰU, Linh mục (1812-1861)
- Thánh Phêrô ĐOÀN CÔNG QUÝ, Linh mục (1826-1859)
- Thánh Phêrô ĐINH VĂN DŨNG (1800-1862) và Phêrô ĐINH VĂN THUẦN (1800-1862), Ngư phủ
- Thánh Phêrô TRƯƠNG VĂN THI, Linh mục (1763-1839)
- Thánh Phêrô VŨ TRUẬT, Phêrô TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG, Phaolô NGUYỄN VĂN MỸ
- Thánh Phêrô NGUYỄN BÁ TUẦN, Linh mục (1766-1838)
- Thánh Phêrô LÊ TÙY, Linh mục (1773-1833)
- Thánh Phêrô NGUYỄN KHẮC TỰ, Thày giảng (1808-1840)
- Thánh Phêrô NGUYỄN VĂN TỰ, Linh mục Dòng Đaminh (1796-1838)
- Thánh Phêrô ĐOÀN VĂN VÂN, Thày giảng (1780 - 1857)
- Thánh Philiphê PHAN VĂN MINH, Linh mục (1815-1853)
- Thánh Simon PHAN ĐẮC HÒA, Y sĩ (1774-1840)
- Thánh Stêphanô Théodore CUÉNOT THỂ, Giám mục thừa sai Paris (1820-1861)
- Thánh Phanxicô Xaviê HÀ TRỌNG MẬU, Đaminh BÙI VĂN ÚY, Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI, Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ, Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH
- Thánh Tôma ĐINH VIẾT DỤ, Linh mục dòng Đaminh (1783-1839)
- No Title
- Thánh Tôma KHUÔNG, Linh mục dòng ba Đaminh (1780-1860)
- Thánh Tôma TRẦN VĂN THIỆN, Chủng sinh (1820-1838)
- Thánh Tôma TOÁN, Thày giảng dòng ba Đaminh (1764-1840)
- Thánh Valentinô BERRIO OCHOA VINH, Giám mục Dòng Đaminh (1827-1861)
- Thánh Vinh Sơn DƯƠNG, Thu thuế (1821 - 1862)
- Thánh Vinh Sơn NGUYỄN THẾ ĐIỂM, Linh mục (1761-1838)
- Thánh Vinh Sơn PHẠM HIẾU LIÊM, Linh mục dòng Đaminh (1732-1773)
- Thánh Anrê TƯỜNG, Vinh Sơn TƯƠNG, Đaminh MẠO, Đaminh NGUYÊN, Đaminh NHI
- Thánh Vinh Sơn ĐỖ YẾN, Linh mục dòng Đaminh (1764-1838)
- Chân Phước ANRÊ PHÚ YÊN, Thày Giảng (1625-1644)
- Ý Nghĩa Bức Họa Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
- Án xin phong thánh cho Các Vị Tử Đạo Giáo Phận Qui Nhơn từ năm 1859-1862
Thánh Phêrô VŨ ĐĂNG KHOA, Linh mục (1790-1838)Ngày 24 Tháng 11
An vui trong hiểm nguy
Phêrô Vũ Đăng Khoa sinh năm 1790 tại làng Thuận Nghĩa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Cậu là con thứ ba trong bẩy người con ông Phaolô Vũ Đình Tân và bà Maria Nguyễn Thị Hoan. Lên tám tuổi, cậu Khoa được học chữ Hán, rồi tiếp tục học thêm với hai linh mục Hòa (Hoan) và Phương. Nhận thấy cậu có trí thông minh, tính tình hiền lành và có ý dâng mình cho Chúa, hai cha đã gửi cậu vào học tại chủng viện Vĩnh Trị (Nam Định), dướisự giáo huấn của cha chính Jeantet Khiêm. Năm 1820, thày Khoa được lãnh chức linh mục.
Với nhiệt tình của người thanh niên 30 tuổi, cha Vũ Đăng Khoa được bổ nhiệm làm phụ tá cho cha Nguyễn Thế Điểm, coi sóc hai xứ Luca Loan Đăng và Vĩnh Phước, thuộc hạt Bố Chính. Trong thời gian chín năm làm phụ tá, cha Khoa đã hăng say trong nhiệm vụ, học hỏi thêm trong chức vụ chủ chăn . nhờ có đời sống đạo đức và niềm nở với mọi người, cha đã thu được nhiều thành quả tốt đẹp. Năm 1829, Đức cha Havard Du bổ nhiệm cha về coi sóc giáo xứ Cồn Dừa. Về nhận xứ mới, cha Khoa đã vận dụng hòan cảnh thuận lợi, khiến cho công tác mục vụ ngày càng tiến triển không ngừng. Trong những công việc bận rộn của giáo xứ, cha vẫn giữ được nét trang nghiêm, nói năng điềm đạm, nhất là luôn quảng đại, nhân từ, nên được mọi người kính nể và yêu mến.
Ngày 06.1.1833 vua Minh Mạng ra chiếu chỉ tòan quốc: Lùng bắt các giáo sĩ nước ngoài cũng như bản xứ, kể cả các tín hữu, triệt hạ các thánh đường và các cơ sở tôn giáo. Nhất là sau chiếu chỉ thứ ba ban hành ngày 25.1.1836, cha Khoa phải thay đổi chỗ ở luôn để có thể tiếp tục công tác mục vụ trong hai năm liền (1836 - 1838). Mặc dù hoàn cảnh bất lợi và nhiều hiểm nguy, cha vẫn an vui vì thấy mình đang sống như Chúa Giêsu xưa "cáo có hang, chim có tổ, nhưng Con Người không chỗ gối dầu".
Trọn đường khổ giá
Người môn đệ của Chúa Kitô, cha Phêrô Vũ Đăng Khoa đâu ngờ mình sắp được chia sẻ con đường khổ nạn theo chân Thày Chí Thánh. Đó là đêm 02.7.1838, cha đang trú ẩn ở làng Lê Sơn, hạt Bố Chính thì một văn nhân tên là Tú Khiết đột nhập vào nhà bắt trói cha cùng với thày giảng Đức và Khang. Sau đó Tú Khiết tra gông vào cổ, giải tất cả các ngài lên Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình ngày 10.7.1838.
Tại công đường Đồng Hới, quan tra vấn cha Khoa nhiều lần, khuyên dụ cha bỏ đạo và khai báo chỗ ở của linh mục thừa sai Candalh Kim. Quan ra lệnh đánh cha 76 roi để uy hiếp tinh thần, nhưng quan vẫn chẳng khai thác được điều mong đợi. Không thành công trong việc tra khảo cha Khoa, quay sang hai thày gỉang Đức và Khang. Thày Khang khai báo sao đó, khiến quan tìm ra nơi trú ẩn của thừa sai Cao và cha Điểm. Ít lâu sau, hai vị này cùng bị bắt giam chung với cha Khoa (31.7).
Quan tiếp tục thi hành nhiều mưu kế và khổ hình để lung lạc đức tin cha Khoa cùng các vị khác. Là linh mục, là chủ chăn, làm sao lại có thể chối Chúa được, cha Khoa cương quyết đi trọn con đường khổ nạn. Các quan thua cuộc và quyết định lên án xử giảo cha. Các quan đệ án vào kinh đô xin nhà vua phê chuẩn cùng với án trảm quyết thừa sai Cao và án xử giảo cha Điểm. Từ đó ba chiến sĩ đức tin mong đợi ngày vinh quang sắp tới, phó thác đời mình qua tay Đức Mẹ.
Ba vị linh mục hàng ngày cùng nhau đọc kinh Mân Côi và hát vang bài "Ave Maria Stella" kính chào Mẹ maria, là Sao Mai rực rỡ, xin chuyển cầu cho chúng con". Mấy ngày đầu vi chưa tìm ra tràng hạt, ba vị nhổ lông quạt để đếm kinh. Ba cha phó thác đời mình cho Nữ Vương các linh mục như xưa Mẹ đã dâng Con Yêu Quý trong đền thờ, nay cũng xin Mẹ hiến dâng chúng con trong cuộc tử đạo đầy hồng phúc.
Trong những ngày tù tội, cha Cao nhận được văn thư Tòa Thánh gửi tới, đặt ngài làm Giám mục hiệu tòa Acanthe và làm đại diện Tông tòa coi sóc giáo phận Tây Đàng Ngoài, thay thế Đức cha Havard Du.
Vua Minh Mạng châu phê bản án và ban lệnh thi hành. Ngày 24.11.1838, quân lính áp giải cha Khoa, Đức cha Cao và cha Điểm đến pháp trường ngoài thành Đồng Hới. Tấm thẻ ghi án của cha Khoa viết: "Đạo trưởng Vũ đăng Khoa, bất khẳng quá khóa, phải xử giảo".
Đến nơi chỉ định, cha quỳ xuống cầu nguyện. Lý hình tròng dây vào cổ cha. nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi vị anh hùng đức tin nghẹt thở và lịm dần. Với 40 tuổi đời và 18 năm linh mục, cha Phêrô Khoa đã thi hành trọn vẹn chức vụ linh mục của mình: Hòa với của lễ vô giá là đức Kitô, cha hiến tế chính mạng sống mình để dâng lên Thiên Chúa Cha, Đấng hằng yêu thương nhân loại.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Phêrô Vũ Đăng Khoa lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Lm. Đào Trung Hiệu, OP