RCEP, Việt Nam cần thận trọng với Trung Quốc

18 Tháng Mười Một 20205:39 SA(Xem: 1103)
  • Tác giả :

RCEP, Việt Nam cần thận trọng với Trung Quốc

Thủ tướng Việt Nam NGuyễn Xuân Phúc (T) và bộ trưởng Công Thương, Trần Tuấn Anh, trong lễ ký trực tuyến hiệp định RCEP, ngày 15/11/2020. AFP - NHAC NGUYEN
Thanh HàThủ tướng Việt Nam NGuyễn Xuân Phúc (T) và bộ trưởng Công Thương, Trần Tuấn Anh, trong lễ ký trực tuyến hiệp định RCEP, ngày 15/11/2020.

Thêm một hiệp định tự do mậu dịch cho Việt Nam. Ngày 15/11/2020 Việt Nam đã ký kết Hiệp Định Đối Tác Toàn Diện Khu Vực –RCEP. Làm thế nào để thỏa thuận này là bàn đạp cho kinh tế phát triển hơn, để thúc đẩy xuất khẩu mà không quá lệ thuộc vào một thị trường lớn là Trung Quốc ? Đó là những thách thức RCEP đặt ra cho phía Việt Nam theo phân tích của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan.


Nếu như dịch Covid-19 không đe dọa một phần lớn nhân loại, chắc hẳn lãnh đạo 15 nước tham gia RCEP đã tề tựu về Việt Nam chứng kiến lễ ký kết một hiệp định tự do mậu dịch toàn diện với quy mô lớn hơn cả USMCA bao gồm ba nước Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Canada và Mêhicô) và hiệp định của Liên Âu cộng lại. Nhưng rốt cuộc sự kiện hằng mong đợi đó, sau tám năm đàm phán, đã chỉ có thể diễn ra qua cầu truyền hình.

RCEP là một sáng kiến được Bắc Kinh đề xuất từ năm 2012 và đã được 10 thành viên Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) cùng với Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc, New Zealand hưởng ứng. Hiệp ước liên quan đến 2,2 tỷ dân toàn cầu, gần 1/3 tổng sản lượng của thế giới.

Một trong những mục tiêu hiệp định là xóa bỏ đến 90 % các hàng rào quan thuế giữa 15 nước, liên quan đến 29 % tổng trao đổi mậu dịch toàn cầu.

Các bên tham gia đang trông thấy viễn cảnh khu vực xuất khẩu sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ một khi các hàng rào quan thuế gần như không còn nữa. Đây là điểm thu hút các quốc gia lấy xuất khẩu làm chủ đạo - đứng đầu là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và kể cả đối với hầu hết các thành viên ASEAN.

Riêng trong trường hợp của Việt Nam, vừa thâm hụt mậu dịch với các đối tác ASEAN và vừa với Trung Quốc thì Hà Nội có thể chờ đợi gì từ Hiệp Định Đối Tác Toàn Diện Khu Vực ? RFI đặt câu hỏi với kinh tế gia Phạm Chi Lan từ Hà Nội, nguyên phó chủ tịch, tổng thư ký Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam :


Chuyên gia Phạm Chi Lan-Hà Nội
Phạm Chi Lan : « Lợi ích chính đối với Việt Nam là thị trường Trung Quốc, chứ còn với những nước khác Việt Nam đã có sẵn với họ những hiệp định mậu dịch, như với Nhật Bản hay Hàn Quốc... Thậm chí, quy mô của những hiệp định đó còn lớn hơn nhiều so với RCEP. Riêng với nội bộ ASEAN thì các hàng rào quan thuế đã được xóa bỏ. Cái chính ở đây là đối với Trung Quốc : Việt Nam muốn tăng cường xuất khẩu và cải thiện cách thức quan hệ với Trung Quốc về đầu tư, về nhập khẩu … theo hướng cho phép Việt Nam tham gia nhiều hơn vào chuỗi giá trị. Tới nay Việt Nam chỉ tham gia ở mức rất thấp, chỉ làm gia công thôi. Đó là kỳ vọng của Việt Nam ở hiệp định này. Có đạt được mục tiêu đó hay không thì tôi cũng còn ngần ngại, chưa biết thực sự phía Trung Quốc và Việt Nam làm thế nào để đạt được kỳ vọng đó ».

RFI : Trung Quốc là thị trường lớn nhất của Việt Nam từ nhiều năm qua và theo thống kê của Tổng Cục Hài Quan Việt Nam trong hai năm 2018 và 2019 tổng trao đổi mậu dịch hai chiều vượt ngưỡng 100 tỷ đô la. Nhưng Việt Nam bị thâm hụt so với Trung Quốc. Có nghĩa là nhập nhiều hàng của Trung Quốc hơn là khả năng xuất khẩu sang thị trường rộng lớn này vây thi hiệp định RCEP có giúp thu hẹp được khoảng cách bất lợi cho các nhà sản xuất Việt Nam hay không ?

Phạm Chi Lan : « Xuất khẩu sang Trung Quốc : Việt Nam đã cố gắng xuất khẩu nhiều và bây giờ chủ yếu trông chờ vào sự tăng trưởng của xuất khẩu nông sản. Trong lĩnh vực này lâu nay Việt Nam thường bị những vấn đề do phía Trung Quốc tạo ra. Đó là những hàng rào cả về thủ tục lẫn cung cách buôn bán không sòng phẳng của các thương gia Trung Quốc. Điều này gây khó khăn cho nông dân Việt Nam. Bây giờ Việt Nam kỳ vọng với RCEP làm ăn sẽ dễ hơn và đi theo con đường chính ngạch hơn. Mặt khác, hiệp định cũng có thể giúp cho doanh nghiệp Việt Nam hiểu là tham gia RCEP thì cũng phải cố gắng tận dụng để củng cố và xây dựng cách làm ăn mới với Trung Quốc cho đàng hoàng hơn, tránh gây thua thiệt cho nông dân Việt Nam, cho doanh nghiệp Việt Nam. Phía Việt Nam cũng phải tự mình thay đổi cung cách làm ăn ».

RFI : Cụ thể hơn thì « thay đổi cung cách làm ăn đó » gồm những gì ?

Phạm Chi Lan : « Nâng cấp hàng hóa, tổ chức tốt hơn, đáp ứng yêu cầu kể cả việc truy xét nguồn gốc sản phẩm, chú trọng vào chuẩn mực vệ sinh an toàn thực phẩm … Có như vậy Việt Nam mới chinh phục được các thị trường rộng lớn hơn để nếu như phía Trung Quốc có vấn đề gì thì còn có những đối tác thương mại khác mua hàng của Việt Nam. Trong trường hợp phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc cho đầu ra của một số nông sản Việt Nam, ngay cả khi có hiệp định mới, đây cũng là một rủi ro đối với Việt Nam. Tôi cho rằng ưu tiên vẫn phải là nâng cấp hàng hóa của mình và cố gắng đáp ứng yêu cầu mới tại các thị trường của các nước khác hơn là trông đợi ở RCEP để xuất khẩu sang Trung Quốc và lại vẫn buôn bán, vẫn lệ thuộc vào các thương lái Trung Quốc. Số này họ vào tận Việt Nam dụ dỗ các nhà sản xuất Việt Nam, họ mua hàng cho được một vài bận rồi họ bỏ. Nông dân Việt Nam lại kêu gọi nhau giải cứu. Đừng vì RCEP mà lại quay lại cách làm ăn như cũ ».

RFI : Thực ra Việt Nam đã tham gia khá nhiều hiệp định tự do mậu dịch mà gần đây nhất là EVFTA với Liên Hiệp Châu Âu, hay Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương với một chục quốc gia trong vùng. Vậy đấy có là những ngõ thoát tránh để quá phụ thuộc vào một thị trường là Trung Quốc hay không ?

Phạm Chi Lan : « RCEP không quá khó như các hiệp định tự do mậu dịch khác, chẳng hạn như với Liên Âu hay CPTPP nhưng Việt Nam vẫn phải cố gắng để vươn lên, phải cải thiện về mặt cơ bản để tận dụng cơ hội ở thị trường Liên Âu hay của các nước thành viên trong hiệp định tự do xuyên Thái Bình Dương hơn là ham thị trường dễ tính là Trung Quốc qua RCEP. Lâu nay Việt Nam xuất siêu nhưng lại luôn bị nhập siêu so với Trung Quốc. Điều đó rất bất lợi cho kinh tế Việt Nam vì như vậy các doanh nghiệp Việt Nam không vươn lên được. Thí dụ như Việt Nam chỉ làm gia công (dệt may, da giầy) cho Trung Quốc mà không tham gia được chuỗi cung ứng ở cấp cao hơn, không sản xuất được những sản phẩm trung gian do Việt Nam ỉ lại nhập khẩu từ Trung Quốc quá nhiều và quá dễ. Chính sách của Việt Nam cũng không khuyến khích doanh nghiệp phát triển và không tạo động lực phát triển cho ngành công nghiệp Việt Nam. Đấy là cái bất lợi lớn nhất. Nhập khẩu quá nhiều từ Trung Quốc kềm hãm kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp. Tôi cho rằng đó là mặt tệ nhất trong quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc từ lâu nay »

Đành rằng RCEP là hiệp định thương mại lớn nhất thế giới đồng thời như chính tên gọi của nó, đây là một Hiệp Định Đối Tác Toàn Diện không chỉ liên quan đến các luồng trao đổi mậu dịch mà còn bao gồm cả các dịch vụ từ ngân hàng tới viễn thông hay chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Vào lúc Hoa Kỳ đánh động công luận thế giới về việc Trung Quốc đánh cắp công nghệ, đe dọa an ninh quốc gia của nhiều nước trên toàn cầu, đó cũng là những vấn đề mà tất cả các thành viên tham gia RCEP, trong đó có Việt Nam, cần quan tâm.
Theo RFI

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Tốc độ tàu cao tốc 200-350 km/h trên toàn mạng lưới đường sắt cao tốc của Trung Quốc đã mang lại ấn tượng về sự phát triển đáng kinh ngạc trong vài thập kỷ qua. Tuy nhiên, mạng lưới đường sắt này không thành công như quảng cáo, nó đã trở thành ác mộng của nền kinh tế. Đáng tiếc là Trung Quốc đã kịp xuất khẩu ác mộng này sang Việt Nam 10 năm trước. Global Times đưa tin, mạng lưới đường sắt cao tốc của Trung Quốc có phạm vi khoảng 38.000 km và Bắc Kinh có kế hoạch sẽ mở rộng mạng lưới này lên quy mô 7 triệu km đến năm 2035. Năm 2008, chuyến tàu cao tốc đầu tiên đã xuất phát từ ga đường sắt Nam Bắc Kinh, ngày nay sau 13 năm, Trung Quốc đã thiết lập mạng lưới đường sắt cao tốc lớn nhất thế giới.
Cuộc diệt chủng của ĐCSTQ đối với Tây Tạng là lời cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta Trong bài phát biểu đánh dấu 70 năm ĐCSTQ tiến quân vào và kiểm soát Tây Tạng, dù ông Uông Dương đã hết lời ca ngợi những thành tựu huy hoàng của ĐCSTQ tại Tây Tạng, ông Anders Corr lại nhận thấy những bằng chứng hiển nhiên về tội ác diệt chủng và nỗi ám ảnh của ĐCSTQ đối với việc phải hủy diệt tín ngưỡng và tôn giáo. Ở bài bình luận này, tác giả Corr sẽ phân tích và chỉ rõ ra những dấu hiệu và bằng chứng về tội ác của ĐCSTQ, thông qua phát biểu của ông Uông Dương.
Thống đốc bang California (Mỹ) vừa ban hành đạo luật gây xôn xao dư luận: ‘Cho phép trẻ vị thành niên phẫu thuật chuyển đổi giới tính hoặc phá thai mà không cần thông báo cho phụ huynh’. Liệu đây là một đạo luật cấp tiến, tự do hay sẽ tiếp tay cho tội ác và sự suy đồi về đạo đức? Trẻ được phá thai hoặc chuyển giới mà không cần thông báo cho phụ huynh Ngày 22/9 vừa qua, Thống đốc bang California, ông Gavin Newsom đã ban hành hai đạo luật cho phép trẻ vị thành niên có thể thực hiện một số thủ tục y tế như phẫu thuật chuyển đổi giới tính và phá thai mà không cần thông báo với phụ huynh. Một trong hai điều luật là AB-1184, trong đó cấm các công ty bảo hiểm sức khỏe yêu cầu có sự ủy quyền của cha mẹ, trước khi những đứa trẻ bắt đầu làm thủ tục cho các dịch vụ y tế.
Trong bối cảnh chính phủ Afghanistan sụp đổ, người Mỹ và những người Afghanistan làm việc cho Hoa Kỳ buộc phải sơ tán, người ta không khỏi băn khoăn rằng: Liệu điều tương tự có thể xảy ra ở những quốc gia mà Mỹ đang bảo trợ? Và có tác động như thế nào đối với Đài Loan và các đồng minh khác của Mỹ ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương?
Gần đây, dư luận dậy sóng trước tuyên bố của một vị giáo sư rằng học phí cấp đại học nên được coi là rào cản kỹ thuật cho đầu vào. Tư tưởng học phí giống như một khoản đầu tư [ở một số ngành nghề] vốn là tư tưởng được chấp thuận ở các nước có nền giáo dục tiến bộ, nhưng áp dụng tại Việt Nam thì dường như chưa hợp lý lắm. Tăng, giảm hay miễn phí giáo dục? Phát biểu tại diễn đàn Quốc hội sáng 25/7 vừa qua, GS Lê Quân (đại biểu Cà Mau) nói: “Chúng ta cũng phải đảm bảo rằng học phí cũng là một rào cản kỹ thuật để tránh việc học sinh lao vào học đại học và trở thành "học đại"", phải coi học phí đối với người học là nguồn đầu tư, thông lệ quốc tế học phí bao giờ cũng bằng gần hai năm tiền lương sau khi tốt nghiệp.
Liệu các cuộc tấn công mạng do Bắc Kinh hậu thuẫn gần đây nhắm vào Mỹ có dẫn đến chiến tranh thật? Đây là câu hỏi mà nhà kinh tế học người Mỹ David P. Goldman đã đặt ra gần đây. Một câu hỏi quan trọng, hiện hữu và rất khó trả lời. Tuy nhiên, vào tháng trước, Tổng thống Joe Biden đã cảnh báo rằng các cuộc tấn công mạng gần đây, bao gồm việc tấn công mạng các cơ quan chính phủ và cơ sở hạ tầng của Hoa Kỳ, rất có thể dẫn đến một “cuộc chiến nổ súng”. Ông Biden tiếp tục: “Tôi nghĩ có nhiều khả năng chúng ta sẽ kết thúc — à, nếu chúng ta có kết cục là một cuộc chiến, một cuộc chiến tranh thực sự với một cường quốc, thì đó sẽ là hậu quả của một tấn công mạng với hậu quả rất lớn”, "cường quốc" đó, tất nhiên, là Trung Quốc. Như ông Goldman lưu ý: "Nận xét của ông Biden được đưa ra trong một văn bản do văn phòng báo chí Tòa Bạch Ốc lưu hành", chúng không phải là sản phẩm của “loạn ngôn tự phát”. Không, họ đã cố tình.
Bệnh dịch lây lan trên toàn quốc là một mối đe dọa tiềm tàng đối với ĐCSTQ. Hiện tại, Delta đang điều khiển nhiều xã hội trên khắp thế giới, nhưng Trung Quốc dường như là nước duy nhất mà biến thể này có thể kết thúc nhiệm kỳ của nhóm cầm quyền. COVID-19 đang tàn phá Trung Quốc Biến thể Delta đang lan nhanh trên khắp đại lục và Bắc Kinh không có giải pháp nào mới ngoài các biện pháp vũ lực tàn bạo, độc tài toàn trị — và đổ lỗi cho người nước ngoài. Hàng triệu người dân Trung Quốc hiện đang bị phong tỏa. Các ca nhiễm gần đây tạo thành đợt bùng phát coronavirus trên diện rộng, thậm chí còn rộng hơn so với đợt bùng phát vào năm ngoái. Đợt bùng phát mới này đã nhanh chóng vượt ra ngoài tầm kiểm soát của các nhà chức trách và phá vỡ kế hoạch tuyên truyền cốt lõi của Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).
Và nay nước Mỹ đang dần tiến vào một xã hội tự do cực tả, nơi xấu đã trở thành tốt và tốt đã trở thành xấu. Những điều tưởng chừng vô lý thì nay là hiện thực, ví như người nhập cư bất hợp pháp được ra vào tự do trên đất Mỹ, và được hưởng quyền “ưu đãi” hơn cả một công dân Mỹ “chính cống”... Khi những bậc lão thành vừa nhâm nhi cà phê vừa hồi tưởng lại quãng thời gian yên bình cách đây hơn nửa kỷ bằng câu mở đầu “muôn thuở”: “Hồi ấy, bố/mẹ ….”, thì bạn đừng than vãn: “Biết rồi, khổ lắm nói mãi”. Bởi nếu có cỗ máy thời gian cho phép bạn quay trở lại thời điểm cách nay hơn nửa thế kỷ, bạn có gật đầu không? Hơn nửa thế kỷ trước, sẽ không có Internet, không có smartphone, điện thì chập chờn và tất nhiên nếu nhà nào sở hữu một cái tivi đen trắng thì trở thành trung tâm "chiếu phim" cho cả cộng đồng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã dựa vào hàng loạt lời nói dối về kinh tế để làm lung lay nhận thức của nhiều người về tình hình hiện tại. Trong bài viết này, chúng tôi xem xét một số lời nói dối lớn nhất và đưa ra bức tranh thực sự đằng sau những lời nói dối đó.
Trong 4 năm nhiệm kỳ của Tổng thống Trump, Big Media đã chế tạo ra bao nhiêu lời dối trá để bủa vây ông? Đã có bao nhiêu thông tin bị lật tẩy giúp công chúng được giải khai sự thật? Mời quý độc giả cùng NTD Việt Nam điểm lại 8 lời dối trá nổi bật nhất về ông Trump của Big Media, trong lúc chờ đợi các thông tin cập nhật từ các cuộc thanh tra kết quả bầu cử tại các tiểu bang Arizona và Georgia. Trong suốt 4 năm dẫn dắt nước Mỹ, cựu Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã đạt được rất nhiều thành tựu. Trong nước, ông Trump không chỉ lấp đầy nền sản xuất rỗng sau nhiều thập kỷ hoang phế, mang lại việc làm và sức tăng trưởng bền hơn cho nền kinh tế, ông còn khôi phục các giá trị truyền thống đang bị bào mòn, xâm lấn triệt để bởi tư tưởng cấp tiến như bảo vệ thai nhi.
Bảo Trợ