PHÁT HIỆN ĐỘNG TRỜI VỀ CÁI GỌI LÀ "THẦN TRỐNG ĐỒNG"
Đền thờ thần núi Đồng Cổ (Yên Định - Thanh Hoá). Ảnh tư liệu HTC
LÀM GÌ CÓ “THẦN TRỐNG ĐỒNG”?
Hoàng Tuấn Công
Sách “Di tích núi và đền Đồng Cổ” (Lê Ngọc Tạo - Nguyễn Ngọc Khiếu” - NXB Thanh Hoá - 2016) là kết quả đề tài khoa học “Sưu tầm, khảo sát và phục dựng nghi lễ của Đền Đồng Cổ”, của Ban Nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Thanh Hoá, do Tiến sĩ Lê Ngọc Tạo chủ trì, cử nhân Nguyễn Ngọc Khiếu thực hiện (sau đây gọi tắt là Nhóm Lê Ngọc Tạo).
Sách báo viết về đền Đồng Cổ thì nhiều, nhưng có lẽ “Di tích núi và đền Đồng Cổ” là công trình chuyên khảo công phu nhất từ trước đến nay về ngôi đền này. Sách có hai phần: “I. Núi Đồng Cổ-Tam Thai và vùng thắng tích Đan Nê”, công bố kết quả sưu tầm trên thực địa và khai quật khảo cổ học; phần “II. Đền Đồng Cổ-Di tích và lễ hội”, công bố thần tích, tư liệu, trải qua các thời kỳ Trần - Hồ (1225 – 1407); Hậu Lê (1428 - 1788), khảo về thần điện, quá trình tu sửa, bài trí đồ thờ và hoành phi, câu đối trong đền…
.
Kết quả đề tài khoa học "Sưu tầm khảo sát và phục dựng nghi lễ của đền Đồng Cổ"
được in thành sách. Ảnh: HTC
Tuy khảo sát, nghiên cứu công phu là vậy, nhưng sách “Di tích núi và đền Đồng Cổ” lại mắc phải sai lầm cơ bản khi cho rằng, đền Đồng Cổ thờ “thần Trống Đồng”.
Sử sách và các thư tịch cổ cho thấy, núi Đồng Cổ vốn có tên là Tam Thai, hoặc núi Khả Lao. Sau khi thần núi Tam Thai dùng binh khí là trống đồng phù trợ vua Hùng chiến thắng, vua đã đổi tên núi thành núi Đồng Cổ (núi Trống Đồng) và lập miếu thờ “Đồng Cổ sơn thần” 銅鼓山神 (thần Núi Đồng Cổ). “Đồng Cổ từ” 銅鼓山祠 (đền Đồng Cổ) chỉ là cách gọi tắt của “Đồng Cổ Sơn từ” 銅鼓山祠 (đền thờ [thần] núi Đồng Cổ). Vì có công lớn trong việc giúp vua Lý chiến thắng giặc, nên thần núi Đồng Cổ còn được rước về Thăng Long để thờ (đền ở Kẻ Bưởi - Hà Nội). Sau này thần báo mộng cho vua Lý tránh được loạn “Tam vương” và được phong là “Thiên Hạ Minh Chủ”. .
Đền Đồng Cổ ở Kẻ Bưởi (Hà Nội) cũng thường bị nhầm lẫn là đền thờ
"thần Trống Đồng". Ảnh: ST
Trong “Đồng Cổ miếu bi ký” (Bia miếu Đồng Cổ, dựng ở đền Đồng Cổ) viết: “Trong thung lũng núi có miếu cổ, thờ thần núi” (nguyên văn: 中有古廟奉事山神 - trung hữu cổ miếu, phụng sự sơn thần). Nội dung tấm bia này còn cho biết “Năm Canh Thân (1800) bỗng ở phía sông Nam Ngạn được một chiếc trống đồng (…) quan đặc sai Đốc trấn Thanh Hoa bèn đem trống đồng mới được tặng lại miếu thần để xuân thu tế tự, để giúp thêm NHẠC KHÍ cho miếu thần.” (trích “Địa chí huyện Thiệu Hoá”).
Do không tìm hiểu đúng thần tích, lại thấy bên trong miếu có chiếc trống đồng (vốn được cung tiến để tưởng nhớ năm xưa vị thần núi đã dùng trống đồng để làm vũ khí phù trợ vua chiến thắng), nên Nhóm Lê Ngọc Tạo và nhiều người nhầm tưởng đền này “thờ thần Trống Đồng”, rồi gán cho “tín ngưỡng thờ thần trống đồng”, cho rằng “tục thờ trống đồng đã trở thành tín ngưỡng của người Việt cổ”. Đây là kết luận hoàn toàn suy diễn, bịa đặt. .
Đền thờ thần núi Đồng Cổ nhìn từ trên cao. Ảnh tư liệu HTC
Điều đáng ngạc nhiên là dù Nhóm Lê Ngọc Tạo cũng tiếp cận khá nhiều nguồn tài liệu, thư tịch cổ, nhưng lại không nhận ra các sách đều chép rõ ràng: đền Đồng Cổ thờ thần núi Đồng Cổ, chứ không phải thờ “thần Trống Đồng”. Cụ thể, sách “Di tích núi và đền Đồng Cổ” của Nhóm Lê Ngọc Tạo trích dẫn:
-“…Canh ba đêm đó, trong või mông lung, Thái tử chợt thấy một dị nhân cao 8 thước mày râu sắc nhọn, khoác chiến bào, tay cầm binh khí đứng trước Thái tử mà tâu rằng: “Tôi là thần núi Đồng Cổ, nghe tin ngài đi đánh giặc, tôi xin theo giúp.” (tr.42; HTC nhấn mạnh).
- “Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư – tập II, trang 251 ghi: “Tháng 3: phong tước vương cho thần núi Đồng Cổ, dựng miếu để tuế thời cúng tế và làm lễ thề…” (tr.43).
Như vậy, dù Nhóm Lê Ngọc Tạo trích dẫn sử liệu chép rõ ràng là đền Đồng Cổ thờ “thần núi Đồng Cổ”, nhưng lại vẫn hiểu lầm thành đền thờ “thần Trống Đồng”. Thậm chí, điều kì lạ hơn, dường như soạn giả không phân biệt được đền thờ thần núi Đồng Cổ, và đền thờ thần Trống Đồng (thực tế không có vị thần này) khác nhau thế nào. Bởi vậy, đầu sách viết “đền Đồng Cổ thờ vị thần Trống Đồng”, nhưng đến giữa và cuối sách lại thành thờ “thần núi Đồng Cổ”. Cụ thể, phần đầu sách, các soạn giả viết:
-“…đền Đồng Cổ thờ vị thần Trống Đồng” (tr.10).
- “..xứ Thanh (…) là địa phương tìm thấy trống đồng nhiều nhất nước cũng chính là nơi có đền thờ Trống Đồng đầu tiên biểu trưng cho quốc hồn dân tộc. Tục thờ trống đồng đã trở thành tín ngưỡng của người Việt cổ còn lưu lại bên cạnh các tôn giáo Phật giáo, Đạo giáo ngoại lai.” (tr.11). .
Đầu trang "thờ thần núi Đồng Cổ" cuối trang "thờ trống đồng ở Đồng Cổ" .
Trang sau khẳng định "thờ thần Trống Đồng"
Đến trang 99 (phần “Thay lời kết”), đầu trang viết là thờ “thần núi Đồng Cổ”, nhưng đến giữa và cuối trang, lại thành thờ “thần Trống Đồng”. Cũng từ sai lầm này mà Hội Cổ vật Thanh Hoa đã từng làm lễ rước 100 cái trống đồng mới đúc lên đền thờ này để xin “thần Trống Đồng” nhập linh, trước khi đem ra Thăng Long cung tiến!
Thế là thay vì tưởng nhớ công lao phù trợ, đánh đuổi giặc ngoại xâm của thần núi Đồng Cổ - Tinh khí chung đúc của núi sông, người ta lại cúi đầu khấn vái và tụng ca cái trống đồng - nguyên là thứ binh khí lúc xung trận của Ngài[*].
HTC/2020 Chú thích: [*]-Nếu lần giở lại tất cả các thư tịch cổ ghi chép về đền Đồng Cổ, chúng ta sẽ thấy không hề có bất cứ tài liệu nào nói đền này thờ “thần Trống Đồng”:
- “Việt điện u linh” của Lý Tế Xuyên, biên soạn năm 1329, ghi chép về đền Đồng Cổ với cái tên được sắc phong và gia phong “Minh chủ linh ứng bảo hựu Đại vương”. Sách này viết: “Theo truyện Báo cực chép: Vương là thần núi Đồng Cổ (ở Thanh Hoá tục gọi là núi Khả Phong-HTC). Khi xưa, Lý Thái tông còn là thái tử, phụng mạng vua cha là Thái tổ, đem binh đi đánh Chiêm Thành (1020), đến Trường Châu, đóng quân tạm nghỉ. Canh ba đêm ấy, trong cõi mông lung, nhà vua chợt thấy một dị nhân, thân cao 8 thước, mày râu cứng nhọn, mặc chiến bào, tay cầm binh khí, đến trước cúi đầu tâu rằng: “Tôi là thần núi Đồng Cổ, nghe tin thái tử sang đánh phương Nam, tôi xin theo giúp để phá giặc, lập chút công nhỏ”.(tr. 83- NXB Văn học - 1972).
-Trong “Lĩnh Nam chích quái” - tập sách ghi chép những truyền thuyết và truyện cổ tích của của Vũ Quỳnh-Kiều Phú, biên soạn từ thời Trần, mục “Truyện thần núi Đồng Cổ” (Đồng Cổ sơn thần) chép: “Thần núi Đồng Cổ là linh thần thượng đẳng ở nước ta. Núi ở xã Trì Nê thượng, huyện Yên Định. Khi Lý Thái tông còn là Thái tử đi đánh Chiêm Thành tới Trường Châu, đêm quá canh ba mộng thấy một dị nhân mặc giáp phục, tự xưng là sơn thần nghe vua Nam chinh xin theo quân vua lập chiến công. Vua nhớ rõ những lời nói chuyện trong mộng”(tr.149- NXB Văn học - 1990).
-“Thanh Hóa kỷ thắng” của Vương Duy Trinh viết: “Trong đền thờ thần có trống đồng (…). Nguyên thần là tinh khí của trái núi, rất linh ứng (…) Xưa Hùng Vương đi đánh Chiêm Thành trú binh dưới chân núi Khả Lao, đêm mộng thấy thần nhân nói rằng:
- Nguyện được đem trống đồng đi phù trợ vương chiến thắng.
Đến khi lâm trận, cứ nghe trong không trung mơ hồ âm thanh của trống đồng và đao kiếm. Quả nhiên thu được toàn thắng. Đến thời Lý Thái tổ, người Chiêm Thành xâm nhập bờ cõi. Khi ấy, Thái tôn đang là Thái tử. (….) Canh ba, vua mộng thấy một người dáng dấp rất to lớn, mình mặc chiến bào, tay cầm bảo kiếm nói rằng: “Ta là thần núi Đồng Cổ, nay nghe Thánh giá nam chinh, nguyện đi theo lập công”. Vua đồng ý cho. Đến khi tỉnh dậy, vua lệnh cho viết bài vị để trong kim xa. Bề tôi theo đó mà làm, quả nhiên đến sau thu được toàn thắng.” (Mật Đa tự tàng bản - HTC dịch).
Bài minh trong miếu thờ thần núi Đồng Cổ còn ca ngợi:“Có núi thiêng Đồng Cổ/Ở Yên Định, Đan Nê/Dưới giữ gìn cõi đất/Trên chống đỡ cột trời/Cao vượt lên ngàn núi/Thiêng hun đúc muôn đời…”.(Địa chí huyện Thiệu Hoá). Theo Blog Teu
...quan họ Bắc Ninh cũng đang đứng trước thử thách khốc liệt trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế , bởi vì lớp già lần lượt ra đi , lớp trẻ thì phải lăn lộn mưu sinh, không gian Quan họ Bắc Ninh ngày ngày bị thu hẹp , luỹ tre làng , ruộng lúa bị các Khu công nghiệp đẩy lùi .
Bối cảnh lịch sử thời cấm đạo - Nước ta lúc ấy, thế kỷ 16, thời Nam Bắc phân tranh, các vua chúa Lê, Mạc rồi Trịnh, Nguyễn đều cho phép mở cửa biển đón các tàu buôn ngoại quốc vào giao thương. Bởi thế, mới có người Âu Châu sang Việt Nam để buôn bán và truyền đạo.
Tìm hiểu quan niệm của giáo dân xã Bình Trung về vấn đề thất bại và thành công trong cuộc sống, kết quả khảo sát cho thấy 36.7% nhận định thành công hay thất bại trong cuộc sống là “do bản thân”, bản thân họ tự tạo ra thành công hoặc tự gây ra thất bại chứ vấn đề này không có sự can thiệp, tác động nào từ Chúa, suy nghĩ họ mang lý tính nhiều hơn
Giáo xứ Vinh Trung được thành lập ngày 28/10/1955 và hiện nay thuộc địa bàn xã Bình Trung. Sau hơn 40 năm thành lập, giáo xứ Vinh Trung được nhận định là một trong những giáo xứ "có nề nếp sống đạo chuẩn mực, trưởng thành.
Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc đã nhất trí đánh giá Bến Tre là một trong những cái nôi dân ca Nam Bộ mang đậm dấu ấn vùng sông nước và đồng bằng sông Cửu Long. Ở Bến Tre có nhiều làn điệu dân ca như: hát ru, hò, lý, nói thơ..Khuyết danh - Vanchuongviet.org
Âm nhạc Việt Nam có hai truyền thống, truyền thống dân gian và truyền thống bác học. Truyền thống dân gian dính liền với đời sống trong xã hội và đi dài theo suốt cuộc đời của người Việt Nam từ lúc sơ sanh cho đến khi trở về với cát bụi. Bắt đầu là tiếng hát ru khi còn nằm nôi, vừa lớn lên có đồng dao...
Câu nói của đại văn hào Thánh Augustinô là âm vang phổ quát nhất đi lọt vào tất cả các nền văn hóa cổ kim, đông cũng như tây, trong tất cả các chiều kích của cuộc sống con người. Thật thế tôn giáo là gì nếu không phải vì yêu thương mà con người được tạo dựng.../07 Tháng Sáu 2012(Xem: 4093)
Nguyễn Đăng Trúc - VanchuongViet/
Theo các công trình nghiên cứu thì cư dân Hòa Bình đã định cư thành từng xóm làng, trồng rau, củ như khoai mỡ ở thung lũng đồi và chế tạo đồ gốm. Đó là thời kỳ văn hóa nương rẫy của cư dân Hòa Bình. Di tích hang Tham Fi là hang ma (spirit cave) tại Đông Bắc Thái Lan có niên đại khoảng từ 8 đến 10 ngàn năm. Tại đây, nhà khảo cổ Mỹ Chester Gorman đã tìm thấy nhiều hóa thạch lớn của các loại cây trồng như trám, cau, bàng và một số loại rau như rau sắng chùa Hương nửa hoang dại nửa trồng trọt. Thời kỳ này, cư dân đã chuyển hẳn sang chăn nuôi trồng trọt nhỏ tuy vẫn còn hái lượm và săn bắt cá và nghề trồng lúa nước đã bắt đầu từ vùng thung lũng rồi phát triển lên vùng cao.
Ngay từ đầu thế kỷ hai mươi, người Pháp đã nỗ lực để tìm biết nguồn gốc của địa danh Sài Gòn, tên của một thành phố mà qua phong cách lãng mạn tây phương họ biến nó thành “Hòn Ngọc Viễn Đông” (La perle de l’Extrêm Orient).../08 Tháng Sáu 2012(Xem: 4337)
Bình Nguyên Lộc - Vantuyen/
Bình thường việc người Tàu nghiên cứu hay viết về Việt nam là một việc làm bình thường, không có gì đáng chú ý vì nước Tàu và nước ta là hai nước kế cận nhau...nhưng thời điểm mà người Tàu đẩy mạnh công tác nghiên cứu về Việt Nam nhằm những mục đính riêng của họ là điều chúng ta cần phải suy nghĩ. Thời điểm đó là năm 1978. /1 Tháng Bảy 2012 (Xem: 2909)
Phạm Cao Dương - vanchuongviet.org
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.