Bộ Giáo lý Đức tin: Cử hành Bí tích Rửa tội với nghi thức được sửa đổi tùy tiện là không thành sự
Không thành sự khi cử hành Bí tích Rửa tội với nghi thức đã được sửa đổi cách tùy tiện và những ai đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội như thế phải được lãnh nhận Bí tích lại theo các quy tắc phụng vụ do Giáo hội thiết lập.
Ngọc Yến - Vatican News
Ngày 06/8/2020, Bộ Giáo lý Đức tin đã đưa ra câu trả lời, được Đức Thánh Cha phê chuẩn, liên quan đến câu hỏi nghi ngờ thành sự về việc cử hành Bí tích Rửa tội với công thức: “Nhân danh cha mẹ, cha/mẹ đỡ đầu, ông bà, các thành viên trong gia đình, nhân danh cộng đoàn, chúng tôi (số nhiều) rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, thay vì công thức chính thức của Giáo hội là: “Tôi/cha rửa anh/chị/con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Bộ Giáo lý Đức tin cho rằng “sửa đổi tùy tiện này nhằm nhấn mạnh giá trị cộng đoàn của Bí tích Rửa tội, để bày tỏ sự tham gia của gia đình, người thân và để tránh ý tưởng tập trung thánh quyền của linh mục”. Tuy nhiên, câu trả lời nhắc lại Hiến chế Sacrosanctum Concilium – Hiến chế về Phụng vụ Thánh, trong đó quy định: “Khi một người cử hành Bí tích Rửa tội thì chính Chúa Giêsu cử hành”. Tất nhiên, trong việc cử hành, cha mẹ của người lãnh nhận Bí tích, cha mẹ đỡ đầu và toàn thể cộng đoàn được mời gọi đóng một vai trò tích cực, nhưng theo Hiến chế, mỗi người, khi chu toàn phận vụ, chỉ thi hành trọn những gì thuộc lãnh vực mình tùy theo bản chất sự việc và những qui tắc phụng vụ (Sacrosanctum Concilium, 28).
Công đồng Vatican II xác định rằng không một ai, ngay cả linh mục có quyền thực hiện theo sáng kiến của mình, nghĩa là loại bỏ hoặc thêm bất cứ điều gì trong các chất thể phụng vụ. Thực vậy, sửa đổi nghi thức cử hành Bí tích không chỉ cấu thành một sự lạm dụng phụng vụ đơn giản, vi phạm một quy tắc, nhưng đồng thời gây ra một tổn hại cho sự hiệp thông Giáo hội và nhìn nhận hành động của Đức Kitô. Và trong những trường hợp nghiêm trọng việc sửa đổi đó làm cho Bí tích vô hiệu, bởi vì bản chất của hành động thừa tác vụ đòi hỏi sự thông truyền cách trung thành điều đã được lãnh nhận.
Tài liệu giải thích: Trong việc cử hành các Bí tích, cộng đoàn không hành động “cách đoàn thể”, nhưng “thừa tác” và thừa tác viên không nói như một viên chức được giao phó công việc, nhưng đóng một vai trò thừa tác như dấu hiệu sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng hành động trong Thân Mình Người, trao ban ân sủng. Trong ánh sáng này, trong khi cử hành Bí tích, tối thiểu thừa tác viên phải có chủ ý làm theo những điều Hội thánh truyền dạy. Một chủ ý phải được thể hiện ra bên ngoài, hành động này được thực hiện không phải nhân danh thừa tác viên nhưng nhân danh Đức Kitô.
Bộ Giáo lý Đức tin kết luận: “Thay đổi nghi thức cử hành Bí tích, còn có nghĩa là không hiểu được chính bản chất của thừa tác vụ Giáo hội, đó là luôn luôn phục vụ Thiên Chúa và dân Người chứ không phải việc thực thi một quyền bính nhằm làm sai những gì đã được giao phó cho Giáo hội bằng một hành động thuộc về Truyền thống. Do đó, mỗi thừa tác viên Bí tích Rửa tội phải ý thức về việc phải hành động trong sự hiệp thông Giáo hội, và có niềm xác tín như Thánh Augustinô. Theo Thánh Augustinô, trong Bí tích Rửa tội, Đức Kitô là quan trọng nhất, vì thế sự thánh thiện của Bí tích Rửa tội không tùy thuộc vào các thừa tác viên mà tùy thuộc vào Đấng đã nói: “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (Ga 1,33). (CSR_5697_2020) Vatican News
Đức Hồng Y Brandmüller vạch trần sai trái của Tổng Giám Mục Viganò đối với Công Đồng Vatican II
Vũ Văn An
Ký giả lão thành Sandro Magister vừa có bài nhận định “The ‘Fake News’ of Viganò and Company. Unmasked by a Cardinal” (‘Tin giả’ của Viganò và tập đoàn. Bị một vị Hồng Y lột mặt nạ).
Như báo chí đã đăng tải, càng ngày Tổng Giám Mục Viganò càng sa sâu hơn vào các sai lầm của ngài. Khởi đầu là chuyện tranh chấp quyền lực khi kêu gọi Đức Phanxicô từ chức, sau đó đụng tới tín lý, vốn là cốt lõi đời sống Giáo Hội. Ngài đi xa đến nỗi đã kết án toàn bộ Công Đồng Vatican II, coi nó như một ổ dị giáo, do đó, tốt nhất nên hủy bỏ nó một cách “in toto” (toàn diện) và quên hẳn nó đi.
Magister cho rằng luận điểm do Viganò đưa ra sau khi đọc một phân tích khác của Giám Mục Athanasius Schneider. Nhưng trong khi phê phán Công Đồng Vatican II, vị giám mục của Kazakhstan này chỉ muốn các điểm ngài cho là sai lầm của nó được sửa chữa, thì Tổng Giám Mục Viganò đã cực đoan đòi dẹp bỏ nó toàn diện.
Đối với Giám Mục Schneider, Đức Hồng Y Walter Brandmüller, một sử gia lỗi lạc của Giáo Hội, từng đứng đầu Ủy Ban Giáo Hội về Các Khoa Học Lịch Sử từ năm 1998 tới năm 2009, và từng là một trong bốn Hồng Y “hoài nghi” Đức Phanxicô, đã gửi tới một bản tóm tắt chỉ ra các điểm thiếu chính xác trong bài viết của ngài.
Riêng đối với Viganò, cho đến nay, cả Tòa Thánh lẫn Đức Hồng Y Brandmüller vẫn im lặng. Phải chăng Viganò bị coi như một thứ cùi hủi không ai muốn đụng tới?
Tuy nhiên, nhân cơ hội này, Magister có phổ biến một bài diễn văn của Đức Hồng Y Brandmüller tựa là “Công Đồng Vatican II: Các Khó Khăn Trong Việc Giải Thích Nó”, đọc trước Học Viện Ecclesia Mater hồi tháng 8 năm 2019. Bài diễn văn nhằm nói chung với những người coi Vatican II như dị giáo, nhưng gián tiếp nói với những người như Giám Mục Schneider và Tổng Giám Mục Viganò: lập trường của họ hoàn toàn sai lầm. (Xin xem nguyên bản tiếng Anh tại https://www.marcotosatti.com/2020/07/07/brandmuller-difficulties-of-interpretation-of-vat-ii/):
Sự kiện trong khi giải thích các văn kiện công đồng, việc đạt tới các ý kiến khác nhau chắc chắn không phải là một điều mới lạ đối với lịch sử của các công đồng. Việc phát biểu các chân lý đức tin có nghĩa phải phát biểu mầu nhiệm khôn tả của chân lý thần thiêng bằng ngôn ngữ nhân loại. Tuy nhiên, đó là và vẫn là một đảm trách táo bạo, một đảm trách mà Thánh Augustinô từng so sánh với việc một em bé cố gắng cát tạn nước biển bằng một chiếc chậu.
Và trong đảm trách này, ngay cả một công đồng cũng không thể làm hơn em bé đó.
Do đó, không có gì là lạ nếu cho dù những lời khẳng định tín lý bất khả ngộ của một công đồng hoặc của một vị giáo hoàng có thể định tín được chân lý mặc khải - và do đó giới hạn nó khỏi sai lầm - nhưng chúng vẫn không bao giờ nắm được trọn vẹn chân lý thần thiêng.
Đó là sự kiện thiết yếu mà chúng ta không được sao lãng khi đối diện với những khó khăn trong việc giải thích mà Công đồng Vatican II đã trình bày cho chúng ta. Để minh họa chúng, chúng ta sẽ giới hạn vào các bản văn công đồng đã được các giới gọi là duy truyền thống tri nhận như khó hiểu một cách đặc biệt.
Tuy nhiên, trước hết, chúng ta nên xem xét những đặc điểm phân biệt Công đồng Vatican II với các công đồng trước đó.
Về phương diện này, có một tiền đề cần được nêu rõ: đối với sử gia của công đồng, Vatican II, về nhiều khía cạnh, trước hết, là một công đồng của những cái nhất (superlatives). Chúng ta bắt đầu với nhận xét rằng trong lịch sử của Giáo hội, không có công đồng nào khác được chuẩn bị kỹ càng bằng Công đồng Vatican II. Đúng vậy, công đồng trước nó cũng đã được chuẩn bị rất kỹ trước khi khai mạc vào ngày 8 tháng 12 năm 1869. Có lẽ phẩm chất thần học của các lược đồ chuẩn bị thậm chí có khi còn vượt trội hơn so với công đồng theo sau nó. Tuy nhiên, không thể bỏ qua điều này: số lượng các ý tưởng và đề nghị được gửi tới từ khắp nơi trên thế giới, cũng như cách chúng được khai triển chi tiết, nhiều hơn tất cả những gì đã được thấy [trong lịch sử của các công đồng] cho đến lúc đó.
Sự kiện Công đồng Vatican II là một công đồng của những cái nhất xuất hiện rõ ràng hơn vào ngày 11 tháng 10 năm 1962, khi một số lượng lớn các giám mục - hai nghìn bốn trăm bốn mươi vị - diễn hành tiến vào Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Nếu Công đồng Vatican I, với khoảng 642 Nghị phụ, tìm đủ chỗ ngồi ở cánh phải của Vương cung thánh đường, thì giờ đây toàn bộ gian giữa đã được biến thành Phòng Họp Công Đồng. Trong khoảng cách một trăm năm giữa hai công đồng, Giáo hội, như giờ đây hiển hiện một cách hết sức ấn tượng, đã trở thành một Giáo hội phổ quát không những trên danh nghĩa mà còn trên thực tế nữa. Thực tại này nay được phản ảnh trong con số 2, 440 Nghị phụ và các quốc gia xuất xứ của họ. Ngoài ra, lần đầu tiên trong lịch sử, một công đồng có thể bỏ phiếu với sự trợ giúp của kỹ thuật điện tử, và các vấn đề về âm thanh (acoustical) từng làm phiền các vị tham gia Vatican I thậm chí không còn được đề cập đến nữa.
Còn nói về các phương tiện truyền thông hiện đại: trước đó chưa bao giờ xảy ra, như đã xảy ra vào năm 1962, là khoảng một nghìn nhà báo từ khắp nơi trên thế giới đã được công nhận theo dõi công đồng. Điều này làm cho Công đồng Vatican II trở thành công đồng được biết đến nhiều nhất trong mọi thời đại, một biến cố truyền thông bậc nhất.
Tuy nhiên, nó cũng là một công đồng của những cái nhất một cách rất đặc biệt về phương diện kết quả của nó. Trong số 1, 135 trang thu thập ấn bản các sắc lệnh của mọi công đồng vẫn thường được coi là công đồng chung, tổng cộng lên tới 21 Công Đồng, riêng một mình Vatican II đã chiếm 315 trang, tức hơn một phần tư tổng số. Do đó, nó chắc chắn chiếm một vị trí đặc biệt trong loạt mọi công đồng chung, dù chúng ta mới chỉ sử dụng các tiêu chuẩn vật chất và bên ngoài của nó mà thôi.
Ngoài tất cả những điều trên, còn có những đặc điểm khác phân biệt Công đồng Vatican II với các công đồng trước nó, chẳng hạn, về các chức năng của một công đồng chung. Các công đồng là những thầy dậy tối cao, các nhà lập pháp tối cao, các thẩm phán tối cao, dưới và với Đức Giáo Hoàng, người mà những vai trò này vốn thuộc về ngay cả khi không có công đồng. Nhưng không phải công đồng nào cũng thực hiện chức năng này.
Chẳng hạn, nếu Công đồng Lyons thứ nhất, vào năm 1245, bằng vạ tuyệt thông và phế truất Hoàng đế Frederick II, đã đóng vai trò như một tòa án và hơn thế còn thông qua các đạo luật, thì ngược lại, Vatican I đã không tổ chức các phiên xử cũng như không ban hành bất cứ đạo luật nào mà chỉ quyết định hoàn toàn về các vấn đề tín lý.
Thay vào đó, Công đồng Vienne các năm 1311-12 vừa thông qua phán quyết vừa ban hành các đạo luật, đồng thời quyết định các vấn đề tín lý.
Cùng một điều trên cũng diễn ra với Công đồng Constance năm 1414-18 và Công đồng Basel-Ferrara-Florence năm 1431-1439.
Nhưng, Vatican II đã không tuyên bố bất cứ phán quyết nào, không thực sự ban hành bất cứ luật lệ nào, và thậm chí không đưa ra bất cứ quyết định định tín nào về các vấn đề đức tin.
Đúng hơn, trên thực tế, nó đã lên khuôn cho một loại công đồng mới, có ý định trở thành một công đồng mục vụ, do đó quan tâm đến việc chăm sóc các linh hồn, nhằm làm cho thế giới thời đó biết đến giáo huấn và chỉ thị của Tin Mừng một cách lôi cuốn hơn và một cách có định hướng. Đặc biệt, nó không công bố bất cứ sự lên án tín lý nào. Đức Gioan XXIII, trong diễn văn long trọng khai mạc công đồng, đã nói rõ: “Không có thời nào trong đó Giáo hội không phản đối những sai sót này; Giáo Hội thường lên án chúng, đôi khi một cách nghiêm khắc nhất. Đối với thời điểm hiện tại, […] Giáo Hội thích sử dụng thuốc thương xót hơn […]; Giáo Hội nghĩ mình nên ra đi để đáp ứng nhu cầu của ngày hôm nay, phát biểu rõ ràng hơn giá trị giáo huấn của mình hơn là lên án”. Tuy nhiên, như chúng ta biết năm mươi năm sau khi nó kết thúc, công đồng đáng lẽ đã viết được trang sử huy hoàng nếu, theo bước chân của Đức Piô XII, nó có đủ can đảm để lên án chủ nghĩa cộng sản một cách minh nhiên rõ ràng và lặp đi lặp lại.
Thay vào đó, nỗi sợ hãi phải tuyên bố các lời kết án lý thuyết và các định nghĩa tín điều, khiến vào cuối công đồng, người ta có ấn tượng rằng một số khẳng định của công đồng có mức độ chân chính cao hơn, và do đó, có tính chất ràng buộc hoàn toàn khác. Do đó, như Hiến chế Lumen Gentium về Giáo hội và Hiến chế Dei Verbum về Mặc Khải Thiên Chúa, chẳng hạn, chắc chắn có bản chất và đặc tính ràng buộc của các giáo huấn tín lý chân chính - mặc dù ở đây không có gì được định nghĩa một cách ràng buộc theo nghĩa chặt chẽ - trong khi, như Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo Dignitatis Humanae chẳng hạn, theo [nhà thần học người Đức] Klaus Mörsdorf [1909-1989], “tuy đưa ra một lập trường về các vấn đề của thời đại nhưng không có nội dung quy phạm rõ ràng”. Thực thế, lập trường này có giá trị cho các văn kiện kỷ luật, quy định việc thực hành mục vụ. Rõ ràng, đặc tính ràng buộc của các bản văn công đồng có các mức độ khác nhau.
Tiến thêm một bước nữa, thì ta phải đặt câu hỏi về mối liên hệ giữa Công đồng Vatican II và toàn bộ Truyền thống của Giáo hội. Chúng ta có thể tìm ra câu trả lời bằng cách phân tích xem các bản văn công đồng đã rút tỉa nhiều hay ít ra sao từ Truyền thống. Theo chiều hướng này, thí dụ, chỉ cần khảo sát Hiến chế Lumen Gentium cũng đủ. Ta chỉ cần lướt qua các ghi chú của bản văn. Nhờ thế, ta có thể thấy mười công đồng trước đã được văn kiện trích dẫn. Trong số này, Vatican I được tham chiếu đến 12 lần, và Trent 16 lần. Do đó, điều rõ ràng là ta có thể tuyệt đối loại bỏ bất cứ ý tưởng nào về việc “tách rời khỏi công đồng Trent”.
Mối liên hệ với Truyền thống thậm chí càng gần gũi hơn nữa nếu chúng ta nghĩ tới cung cách, trong số các giáo hoàng, Đức Piô XII được trích dẫn 55 lần, Đức Lêô XIII 17 lần, và Đức Piô XI 12 lần. Thêm vào đó còn có Đức Bênêđíctô XIV, Đức Bênêđíctô XV, Đức Piô IX, Đức Piô X, Đức Innocentê I và Đức Gelasiô.
Tuy nhiên, khía cạnh gây ấn tượng nhất là sự hiện diện của các Giáo phụ trong các bản văn của Lumen Gentium. Công đồng tham chiếu giáo huấn của các Giáo phụ trọn vẹn 44 lần, bao gồm các thánh Augustinô, Ignaxiô thành Antiokia, Cyprianô, Gioan Kim Khẩu và Irenê.
Hơn nữa, các nhà thần học và tiến sĩ vĩ đại của Giáo hội cũng đã được trích dẫn: Thánh Tôma Aquinô trong 12 đoạn văn, cùng với bảy vị quan trọng khác.
Chỉ riêng bản liệt kê trên mà thôi cũng đủ để minh họa mức độ các Nghị phụ của Công đồng Vatican II cố ý tự đặt mình vào dòng Truyền thống, tự tích hợp mình vào tiến trình tiếp nhận và chuyển giao điều vốn là raison d’être (lý do hiện hữu) của Giáo hội ra sao: Thánh Tông đồ vốn nói “Tôi đã nhận được từ Chúa những gì tôi đã chuyển giao cho anh em”. Rõ ràng là cũng dưới khía cạnh này, chúng ta không thể nói tới một sự khởi đầu mới của Giáo Hội, hay tới một Lễ Hiện Xuống mới.
Điều trên dẫn đến những hậu quả quan trọng đối với việc giải thích Công đồng, và nói chính xác hơn, không hẳn giải thích về “biến cố công đồng” mà là về các bản văn của nó. Mối quan tâm hữu hình chính trong nhiều tuyên bố của Đức Bênêđíctô XVI là làm nổi bật mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ giữa Công đồng Vatican II và Truyền thống Giáo hội nói chung, nhờ đó cho thấy nền giải thích nào tin rằng, trong Vatican II, mình nhìn thấy một đứt đoạn với Truyền thống là hoàn toàn sai lầm.
Nền “giải thích đứt đoạn” này được tạo ra bởi cả những người nhìn thấy ở Vatican II một sự xa rời đức tin chân chính, do đó một sai lầm hoặc thậm chí một dị giáo, lẫn bởi những người, bằng sự đứt đoạn như vậy với quá khứ, muốn trân tráo thực hiện một cuộc lên đường liều lĩnh hướng tới những bến bờ mới.
Tuy nhiên: suy đoán về một đứt đoạn trong giáo huấn và hành động bí tích của Giáo hội là điều bất khả, ngay cả chỉ vì những lý do thần học. Nếu chúng ta tin vào lời hứa của Chúa Giêsu Kitô sẽ ở với Giáo Hội của Người cho đến tận thế, sẽ sai Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ dẫn dắt chúng ta vào sự phong phú của chân lý, thì thật là vô lý khi nghĩ rằng giáo huấn của Giáo Hội, được thông truyền một cách chân chính, theo thời gian, lại có thể được chứng minh là sai lầm ở thời điểm này hay thời điểm khác, hoặc một sai lầm vốn luôn bị bác bỏ lại có thể, vào một thời điểm nào đó, được mặc khải là đúng. Bất cứ ai chủ trương rằng điều này có thể xảy ra sẽ là nạn nhân của thuyết tương đối, một thuyết vốn cho rằng sự thật, trong yếu tính, có thể thay đổi; nghĩa là, trong thực tế, sự thật hoàn toàn không hiện hữu.
Mọi công đồng đều đóng góp chuyên biệt vào Truyền thống này. Đương nhiên, việc đóng góp của một công đồng không thể hệ ở việc thêm nội dung mới vào kho tàng đức tin của Giáo hội. Và càng không có việc một công đồng có thể loại bỏ các giáo huấn đức tin được lưu truyền cho đến nay. Đúng hơn, những gì được hoàn thành ở đây là một tiến trình phát triển, làm sáng tỏ và biện phân, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, một tiến trình dẫn dắt mỗi công đồng, với những tuyên bố định tín dứt khoát, nhập vào Truyền thống tổng thể của Giáo hội, như một phần cấu tạo ra nó. Từ quan điểm này, các công đồng luôn mở ra phía trước, hướng tới một tuyên bố tín lý đầy đủ, rõ ràng và hiện hành hơn; chúng không đi trở lui. Một công đồng sẽ không bao giờ mâu thuẫn với những công đồng đã đi trước nó, nhưng nó có thể tích hợp, chỉ rõ và tiếp tục.
Tuy nhiên, sự việc sẽ ra khác, nếu hiểu công đồng như một cơ quan lập pháp. Một công đồng như thế có thể - và chắc chắn phải – đương đầu với các nhu cầu cụ thể của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhưng luôn luôn bên trong các giới hạn được đức tin chỉ định, và theo quan điểm này, trên nguyên tắc, công đồng này có thể thay đổi. Vietcatholic,net Còn 1 kỳ
Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành một thông điệp video, đề nghị những mô thức đặc biệt cho Đại Hội Gia Đình Thế Giới năm 2022, và kêu gọi các giáo phận hãy có những sáng kiến, kế hoạch đề ra những sáng kiến mới như một phần của sự kiện.
(Tin Vatican - Devin Watkins)
Trong khi chuẩn bị cho Đại Hội Gia đình Thế giới (WMF) diễn ra vào ngày 22-26 tháng 6 năm 2022, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi tín hữu trên toàn cầu hãy tham gia vào Đại Hội thứ 10 này.
Trong thông điệp video được công bố vào thứ Sáu (2/7/2021), Đức Thánh Cha cho biết một mô thức mới đang được lên kế hoạch cho Đại Hội Gia đình Thế giới (WMF), được tổ chức tại Rome nhưng cũng được tổ chức mọi nơi trên toàn thế giới.
Đức Thánh Cha nói: “Sau khi bị hoãn lại một năm do đại dịch, mong muốn được gặp lại là một khát vọng lớn.
Vatican News (16.4.2021) - Trong sứ điệp gửi các tín đồ Hồi giáo nhân tháng Ramadan, Đức Hồng y Miguel Ayuso Guixot, nhấn mạnh đến niềm hy vọng của những người tin vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài mời gọi các Kitô hữu và tín đồ Hồi giáo trở thành những chứng nhân và người mang hy vọng cho các anh chị em đang gặp khó khăn.
Trước hết, Đức Hồng y Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Đối thoại Liên tôn chúc các tín đồ Hồi giáo một tháng tràn đầy phúc lành và phát triển thiêng liêng. Ngài nhắc rằng: ăn chay, cầu nguyện, bố thí và các thực hành đạo đức khác, đưa chúng ta đến gần hơn với Thiên Chúa và tất cả những người chúng ta đang chung sống và làm việc.
WHĐ (12.04.2021) – Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGM) đã khai mạc Hội nghị thường niên lần I/2021, được tổ chức từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 4 tại Toà Giám mục Nha Trang.
19g30 ngày 12 tháng 4 năm 2021, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm – Tổng Thư ký HĐGM – đã chủ sự Chầu Thánh Thể, tiếp theo là cử hành phụng vụ Kinh Tối. Đức Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn cùng với 25 Giám mục chính toà và Giám quản tông toà của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam đã hiện diện trong sự tiếp đón nồng hậu và ân cần của Giáo phận Nha Trang.
Nhân dịp này, Giáo phận Nha Trang sẽ tổ chức Thánh lễ tạ ơn vào chiều ngày 15 tháng 4 mừng kỷ niệm 350 năm Đức cha Pierre Lambert de la Motte – Đại diện Tông tòa đầu tiên của Đàng Trong – đặt chân đến vùng đất Nha Trang và kỷ niệm 50 năm linh mục của Đức cha Giuse Võ Đức Minh – Giám mục Giáo phận Nha Trang.
Trong bài giảng lễ Truyền Dầu, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng loan báo Tin Mừng và bách hại và Thánh giá đi liền với nhau. Đức Thánh Cha mời gọi đừng ngạc nhiên và khủng hoảng khi nhận thấy Thánh giá trong cuộc sống. Thánh giá có sức mạnh tiêu diệt sự ác. Và ơn Chúa cũng được ban cho chúng ta qua những thánh giá trong cuộc sống, vì yêu thương.
Hồng Thủy - Vatican News
Lúc 10 giờ sáng ngày 1 tháng 4, thứ Năm Tuần Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ truyền Dầu tại bàn thờ Ngai tòa trong đền thờ thánh Phê-rô.
Mọi năm, khi không có đại dịch, khoảng một ngàn linh mục ở Roma đồng tế với Đức Thánh Cha trong Thánh lễ truyền Dầu. Các linh mục quy tụ quanh Đức Thánh Cha để lặp lại lời tuyên hứa mà các ngài đã tuyên thệ trước giám mục trong ngày lãnh nhận chức linh mục
19g thứ Sáu 19/3 giờ VN: Đàng Thánh Giá trực tuyến trên chính con đường Chúa đã đi lên đồi Golgotha
Tại Giêrusalem nơi Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút cuối cùng của Ngài trong cuộc sống dương thế, trong suốt Mùa Chay và đặc biệt là trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, các hiệp sĩ Thánh Mộ và anh chị em tín hữu cùng đi đàng Thánh Giá trên chính con đường Chúa đã đi để lên đồi Golgotha.
Được đi lại trên chính con đường thương khó Chúa đã đi qua là một kinh nghiệm sâu sắc thay đổi cuộc đời biết bao người hành hương đến Giêrusalem.
Tiếc thay vì hoàn cảnh đại dịch coronavirus kinh hoàng này, điều này không thể thực hiện. Chính vì thế các hiệp sĩ quản thủ Thánh Mộ đã dùng đến phương tiện truyền thông trực tuyến để các tín hữu gần xa có thể hiệp ý với các ngài.
Ngày 8/2/2021 Phòng Báo chí Tòa Thánh đã công bố chương trình chuyến viếng thăm Iraq của Đức Thánh Cha trong các ngày từ 5-8/3 sắp tới. Ngài sẽ thăm các thành phố Najaf, Ur, Erbil, Mosul và Qaraqosh, nơi ngài sẽ viếng thăm nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội Al-Tahira đã bị Nhà nước Hồi giáo đốt phá sau khi nhóm này nắm quyền kiểm soát thị trấn vào năm 2014.
Hồng Thủy - Vatican News
Ngày thứ nhất 5/3/2021
Đức Thánh Cha sẽ rời Roma vào sáng thứ Sáu 5/3 và đến phi trường thủ đô Baghdad vào ban chiều.
Sau nghi thức tiếp đón chính thức tại phi trường, Đức Thánh Cha sẽ hội kiến với Thủ tướng Iraq tại phòng VIP của phi trường. Tiếp đến Đức Thánh Cha sẽ đến Dinh Tổng thống, viếng thăm xã giao Tổng thống; tại đây sẽ có nghi thức chào đón chính thức.
Vào lúc 9:30 sáng thứ Tư 17/2/2021, lễ Tro, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành Thánh lễ tại bàn thờ Ngai tòa trong đền thờ thánh Phê-rô. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu sống Mùa Chay như một cuộc hành trình trở về với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và cũng là cơ hội đào sâu tình yêu thương của chúng ta đối với các anh chị em.
Hồng Thủy - Vatican News
Hàng năm, theo truyền thống, Đức Thánh Cha cử hành lễ Tro vào chiều thứ Tư lễ Tro tại vương cung thánh đường thánh Sabina của dòng Đaminh, trên đồi Avventino ở Roma. Trước Thánh lễ, Đức Thánh Cha thực hiện cuộc hành hương thống hối, đi bộ từ vương cung thánh đường thánh Anselmo của dòng Biển Đức đến vương cung thánh đường thánh Sabina.
“Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20) là chủ đề của Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Thế giới Truyền giáo năm 2021, sẽ được cử hành vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Mười. Trong Sứ điệp Đức Thánh Cha nói rằng Giáo Hội ngày nay cần những tấm lòng có khả năng thúc đẩy mình đi đến "các vùng ngoại biên của thế giới".
Hồng Thủy - Vatican News
Mở đầu Sứ điệp, Đức Thánh Cha khẳng định: “Khi cảm nghiệm được sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, khi nhận ra sự hiện diện hiền phụ của Người trong đời sống cá nhân và cộng đoàn, chúng ta không thể không loan báo và chia sẻ những gì chúng ta đã thấy và đã nghe.” Đàng khác, mầu nhiệm Nhập Thể, Tin Mừng và mầu nhiệm Phục sinh tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương nhân loại, nhắc chúng ta rằng Chúa biết thế giới và biết nó cần ơn cứu độ và mời gọi chúng ta tham gia tích cực vào sứ vụ truyền giáo.
1. ĐẠI DỊCH COVID-19
Sự kiện quan trọng nhất và bao trùm cả năm 2020 là đại dịch Covid-19, do virus Corona chủng mới gây ra, làm thay đổi bao nhiêu nề nếp sinh hoạt phụng vụ và mục vụ trong Giáo hội Công Giáo. Vào ngày 11-3-2020, Tổng giám đốc Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã tuyên bố dịch bệnh Covid-19 là ‘đại dịch’. Trước đó 2 ngày, nước Ý đã phong tỏa toàn quốc vào ngày 9-3-2020. Trong buổi chiều cùng ngày, Hội đồng Giám mục Ý đã thông báo về việc ngưng toàn bộ các Thánh lễ trên toàn nước Ý từ ngày 10-3 đến ngày 3-4-2020 để ngăn ngừa sự lây lan của virus corona.
Ngày 16-5, nước Ý ghi nhận số ca tử vong trong ngày thấp nhất kể từ lúc phong tỏa hôm 9-3, nên đã phê chuẩn sắc lệnh khôi phục phần lớn hoạt động kinh tế, dỡ bỏ lệnh hạn chế di chuyển.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.