Công hàm của Malaysia phản đối yêu sách của Trung Quốc nói lên điều gì?

01 Tháng Tám 20202:42 SA(Xem: 1083)

Công hàm của Malaysia phản đối yêu sách của Trung Quốc nói lên điều gì?

Phan Huyền Thư
Hình minh hoạ. Hình chụp vệ tinh Đá Subi ở Trường Sa do Trung Quốc chiếm đóng
Hình minh hoạ. Hình chụp vệ tinh Đá Subi ở Trường Sa do Trung Quốc chiếm đóng
blank Reuters

Malaysia đưa công hàm bác bỏ yêu sách của Trung Quốc

Cuộc chiến công hàm” tại Liên hợp quốc (LHQ) giữa các bên tranh chấp trên Biển Đông đã có chuyển biến mới khi Malaysia gửi công hàm bác bỏ tuyên bố trước đó của Trung Quốc nói rằng Kuala Lumpur không có quyền xin thiết lập thềm lục địa ở vùng biển phía Bắc của Biển Đông.

Ngày 29/7, Phái đoàn thường trực của Malaysia tại LHQ đã gửi công hàm số HA26/20 tới Tổng thư ký LHQ, trong đó khẳng định định tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các thực thể tại Biển Đông không có cơ sở pháp lý. Theo phái đoàn thường trực của Malaysia tại LHQ, công hàm HA26/20 thể hiện quan điểm của quốc gia Đông Nam Á này đối với công hàm CML/14/2019 của Phái đoàn thường trực Trung Quốc tại LHQ.

Nội dung công hàm của Malaysia khẳng định bản đệ trình mà nước này gửi lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (CLCS) LHQ ngày 12/12/2019 đối với thềm lục địa mở rộng ngoài phạm vi 200 hải lý trong khu vực phía Bắc Biển Đông, tính từ đường cơ sở, được thực hiện theo đúng cam kết về nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, phù hợp với các quy định của UNCLOS cũng như Quy tắc tố tụng của CLCS. Công hàm nhấn mạnh, Chính phủ Malaysia khẳng định bản đệ trình phù hợp với các quyền và nghĩa vụ của Malaysia trong việc phân định ranh giới thềm lục địa ngoài phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở theo quy định tại Khoản 7, điều 76 UNCLOS.

Nội dung công hàm cũng nêu rõ, liên quan đến tuyên bố của Trung Quốc trong các đoạn thứ hai và thứ ba của công hàm CML/14/2019, chính phủ Malaysia bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc đối với các quyền lịch sử, quyền chủ quyền và quyền tài phán khác đối với vùng biển thuộc Biển Đông được bao phủ trong phạm vi cái gọi là "Đường 9 đoạn" vì các tuyên bố này trái với UNCLOS và không có hiệu lực pháp lý khi vượt quá giới hạn địa lý và thực chất của các quyền hàng hải của Trung Quốc theo quy định của UNCLOS.

Chính vì vậy, Chính phủ Malaysia cho rằng yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với các thực thể tại Biển Đông không có cơ sở theo luật pháp quốc tế và quốc gia Đông Nam Á này bác bỏ toàn bộ nội dung của công hàm CML/14/2019.

Bên cạnh đó, phái đoàn thường trực của Malaysia tại LHQ cũng đề nghị CLCS tiếp tục tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định đối với bản Đệ trình bộ phận mà quốc gia Đông Nam Á đã gửi ngày 12/12/2019.

Những lưu ý về công hàm này của Malaysia

Có một số lưu ý trong công hàm này của Malaysia. Thứ nhất là công hàm này cho thấy cách thể hiện lập trường về vấn đề biển Đông của Malaysia có những thay đổi nhất định.

Malaysia là bên khởi đầu dẫn tới “cuộc chiến công hàm” với đệ trình về thềm lục địa mở rộng lên CLCS ngày 12/12/2019. Từ đó dẫn tới việc các quốc gia liên quan đã gửi một loạt các công hàm/công thư lên Liên Hợp Quốc để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình ở biển Đông.

Công hàm ngày 29/7/2020 của Malaysia được đưa ra sau các công hàm tương tự của Philippines, Việt Nam, Indonesia, Mỹ và Australia kể từ sau đợt trao đổi đầu tiên giữa Malaysia và Trung Quốc hồi tháng 12 năm ngoái. Các công hàm này không phải là công hàm ngoại giao bình thường giữa các quốc gia, mà được đệ trình lên Tổng thư ký LHQ với đề nghị rằng chúng sẽ được lan truyền tới các nước thành viên khác.

Một trong những nội dung đáng chú ý của công hàm HA26/20 đó là việc Malaysia công khai khẳng định tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các thực thể tại Biển Đông không có cơ sở pháp lý cũng như phủ nhận “Đường 9 đoạn” của Trung Quốc. Điều này đánh dấu một sự thay đổi lớn trong chính sách biển Đông của Malaysia.

Trước đây, Malaysia luôn kiên trì áp dụng “chính sách ngoại giao thầm lặng” trong việc giải quyết các bất đồng với Trung Quốc ở biển Đông. Thế nhưng, đây là lần đầu Malaysia công khai khẳng định điều này khi mà trước đây nước này chỉ trao đổi trong các cuộc gặp song phương kín với đại diện của Trung Quốc. Tuy nhiên, công hàm này không phải là sự thay đổi hoàn toàn lập trường của Malaysia trong giải quyết tranh chấp Biển Đông, mà đây là sự khẳng định tiếp theo chính sách nhất quán giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình của quốc gia Đông Nam Á này.

Trước đây, Malaysia luôn kiên trì áp dụng “chính sách ngoại giao thầm lặng” trong việc giải quyết các bất đồng với Trung Quốc ở biển Đông. Thế nhưng, đây là lần đầu Malaysia công khai khẳng định điều này khi mà trước đây nước này chỉ trao đổi trong các cuộc gặp song phương kín với đại diện của Trung Quốc.

Điểm lưu ý thứ hai trong nội dung của công hàm này, đó là mặc dù trong Đệ trình về thềm lục địa mở rộng gửi lên CLCS năm 2019, Malaysia dường như đã dựa trên sự tiến triển của các lập luận pháp lý sau Phán quyết của Toà trọng tài năm 2016 trong Vụ Philippines kiện Trung Quốc. Tuy nhiên, trong công hàm ngày 29/7 này, Malaysia không đả động gì tới Phán quyết 2016. Cho dù, các công hàm/công thư của Philippines, Việt Nam, Indonesia, Hoa Kỳ và Australia đều viện dẫn Phán quyết và yêu cầu các bên liên quan thực thị Phán quyết 2016 này.

Điều này thể hiện rằng, mặc dù trước áp lực của “cuộc chiến công hàm”, Malaysia thấy cần phải lên tiếng vừa để bảo vệ lợi ích của mình, vừa không để vuột mất cơ hội đi cùng các quốc gia chống lại tham vọng phi lý của Trung Quốc trên biển Đông. Tuy nhiên, Malaysia cũng vẫn rất thận trọng, tránh để mích lòng Trung Quốc, khi không nhắc tới Phán quyết, cho dù khẳng định các yêu sách chủ quyền đối với các thực thể trên biển Đông của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý, một hàm ý gián tiếp và gây nhiều tranh cãi từ điều này.

Cuộc chiến pháp lý ở biển Đông vẫn tiếp diễn

Như vậy, cùng với công hàm mới đây của Malaysia, nội dung của các công hàm của các nước thành viên ASEAN trước đây về vấn đề biển Đông đều nhấn mạnh rằng các tuyên bố về quyền và quyền tài phán đối với các khu vực biển trên Biển Đông phải tuân thủ UNCLOS mà trong đó Trung Quốc và các nước ASEAN đều là các bên tham gia. Các công hàm của các quốc gia ASEAN này cũng khẳng định thêm rằng việc Trung Quốc tuyên bố về các quyền và quyền tài phán trên Biển Đông không phù hợp với UNCLOS.

Ngoài ra, Việt Nam, Philippines và Indonesia đều nhắc tới phán quyết của Tòa Trọng tài năm 2016 về vụ kiện giữa Manila và Bắc Kinh, trong đó khẳng định Bắc Kinh không có quyền lịch sử tại Biển Đông. Việc các quốc gia ASEAN ban hành các công hàm như vậy là dấu hiệu rõ ràng cho thấy tranh cãi về tính pháp lý của các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ không sớm lắng dịu, cho dù ASEAN và Trung Quốc đang tiến hành các cuộc đàm phán về Bộ Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC).

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do - Theo RFA

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Tốc độ tàu cao tốc 200-350 km/h trên toàn mạng lưới đường sắt cao tốc của Trung Quốc đã mang lại ấn tượng về sự phát triển đáng kinh ngạc trong vài thập kỷ qua. Tuy nhiên, mạng lưới đường sắt này không thành công như quảng cáo, nó đã trở thành ác mộng của nền kinh tế. Đáng tiếc là Trung Quốc đã kịp xuất khẩu ác mộng này sang Việt Nam 10 năm trước. Global Times đưa tin, mạng lưới đường sắt cao tốc của Trung Quốc có phạm vi khoảng 38.000 km và Bắc Kinh có kế hoạch sẽ mở rộng mạng lưới này lên quy mô 7 triệu km đến năm 2035. Năm 2008, chuyến tàu cao tốc đầu tiên đã xuất phát từ ga đường sắt Nam Bắc Kinh, ngày nay sau 13 năm, Trung Quốc đã thiết lập mạng lưới đường sắt cao tốc lớn nhất thế giới.
Cuộc diệt chủng của ĐCSTQ đối với Tây Tạng là lời cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta Trong bài phát biểu đánh dấu 70 năm ĐCSTQ tiến quân vào và kiểm soát Tây Tạng, dù ông Uông Dương đã hết lời ca ngợi những thành tựu huy hoàng của ĐCSTQ tại Tây Tạng, ông Anders Corr lại nhận thấy những bằng chứng hiển nhiên về tội ác diệt chủng và nỗi ám ảnh của ĐCSTQ đối với việc phải hủy diệt tín ngưỡng và tôn giáo. Ở bài bình luận này, tác giả Corr sẽ phân tích và chỉ rõ ra những dấu hiệu và bằng chứng về tội ác của ĐCSTQ, thông qua phát biểu của ông Uông Dương.
Thống đốc bang California (Mỹ) vừa ban hành đạo luật gây xôn xao dư luận: ‘Cho phép trẻ vị thành niên phẫu thuật chuyển đổi giới tính hoặc phá thai mà không cần thông báo cho phụ huynh’. Liệu đây là một đạo luật cấp tiến, tự do hay sẽ tiếp tay cho tội ác và sự suy đồi về đạo đức? Trẻ được phá thai hoặc chuyển giới mà không cần thông báo cho phụ huynh Ngày 22/9 vừa qua, Thống đốc bang California, ông Gavin Newsom đã ban hành hai đạo luật cho phép trẻ vị thành niên có thể thực hiện một số thủ tục y tế như phẫu thuật chuyển đổi giới tính và phá thai mà không cần thông báo với phụ huynh. Một trong hai điều luật là AB-1184, trong đó cấm các công ty bảo hiểm sức khỏe yêu cầu có sự ủy quyền của cha mẹ, trước khi những đứa trẻ bắt đầu làm thủ tục cho các dịch vụ y tế.
Trong bối cảnh chính phủ Afghanistan sụp đổ, người Mỹ và những người Afghanistan làm việc cho Hoa Kỳ buộc phải sơ tán, người ta không khỏi băn khoăn rằng: Liệu điều tương tự có thể xảy ra ở những quốc gia mà Mỹ đang bảo trợ? Và có tác động như thế nào đối với Đài Loan và các đồng minh khác của Mỹ ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương?
Gần đây, dư luận dậy sóng trước tuyên bố của một vị giáo sư rằng học phí cấp đại học nên được coi là rào cản kỹ thuật cho đầu vào. Tư tưởng học phí giống như một khoản đầu tư [ở một số ngành nghề] vốn là tư tưởng được chấp thuận ở các nước có nền giáo dục tiến bộ, nhưng áp dụng tại Việt Nam thì dường như chưa hợp lý lắm. Tăng, giảm hay miễn phí giáo dục? Phát biểu tại diễn đàn Quốc hội sáng 25/7 vừa qua, GS Lê Quân (đại biểu Cà Mau) nói: “Chúng ta cũng phải đảm bảo rằng học phí cũng là một rào cản kỹ thuật để tránh việc học sinh lao vào học đại học và trở thành "học đại"", phải coi học phí đối với người học là nguồn đầu tư, thông lệ quốc tế học phí bao giờ cũng bằng gần hai năm tiền lương sau khi tốt nghiệp.
Liệu các cuộc tấn công mạng do Bắc Kinh hậu thuẫn gần đây nhắm vào Mỹ có dẫn đến chiến tranh thật? Đây là câu hỏi mà nhà kinh tế học người Mỹ David P. Goldman đã đặt ra gần đây. Một câu hỏi quan trọng, hiện hữu và rất khó trả lời. Tuy nhiên, vào tháng trước, Tổng thống Joe Biden đã cảnh báo rằng các cuộc tấn công mạng gần đây, bao gồm việc tấn công mạng các cơ quan chính phủ và cơ sở hạ tầng của Hoa Kỳ, rất có thể dẫn đến một “cuộc chiến nổ súng”. Ông Biden tiếp tục: “Tôi nghĩ có nhiều khả năng chúng ta sẽ kết thúc — à, nếu chúng ta có kết cục là một cuộc chiến, một cuộc chiến tranh thực sự với một cường quốc, thì đó sẽ là hậu quả của một tấn công mạng với hậu quả rất lớn”, "cường quốc" đó, tất nhiên, là Trung Quốc. Như ông Goldman lưu ý: "Nận xét của ông Biden được đưa ra trong một văn bản do văn phòng báo chí Tòa Bạch Ốc lưu hành", chúng không phải là sản phẩm của “loạn ngôn tự phát”. Không, họ đã cố tình.
Bệnh dịch lây lan trên toàn quốc là một mối đe dọa tiềm tàng đối với ĐCSTQ. Hiện tại, Delta đang điều khiển nhiều xã hội trên khắp thế giới, nhưng Trung Quốc dường như là nước duy nhất mà biến thể này có thể kết thúc nhiệm kỳ của nhóm cầm quyền. COVID-19 đang tàn phá Trung Quốc Biến thể Delta đang lan nhanh trên khắp đại lục và Bắc Kinh không có giải pháp nào mới ngoài các biện pháp vũ lực tàn bạo, độc tài toàn trị — và đổ lỗi cho người nước ngoài. Hàng triệu người dân Trung Quốc hiện đang bị phong tỏa. Các ca nhiễm gần đây tạo thành đợt bùng phát coronavirus trên diện rộng, thậm chí còn rộng hơn so với đợt bùng phát vào năm ngoái. Đợt bùng phát mới này đã nhanh chóng vượt ra ngoài tầm kiểm soát của các nhà chức trách và phá vỡ kế hoạch tuyên truyền cốt lõi của Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).
Và nay nước Mỹ đang dần tiến vào một xã hội tự do cực tả, nơi xấu đã trở thành tốt và tốt đã trở thành xấu. Những điều tưởng chừng vô lý thì nay là hiện thực, ví như người nhập cư bất hợp pháp được ra vào tự do trên đất Mỹ, và được hưởng quyền “ưu đãi” hơn cả một công dân Mỹ “chính cống”... Khi những bậc lão thành vừa nhâm nhi cà phê vừa hồi tưởng lại quãng thời gian yên bình cách đây hơn nửa kỷ bằng câu mở đầu “muôn thuở”: “Hồi ấy, bố/mẹ ….”, thì bạn đừng than vãn: “Biết rồi, khổ lắm nói mãi”. Bởi nếu có cỗ máy thời gian cho phép bạn quay trở lại thời điểm cách nay hơn nửa thế kỷ, bạn có gật đầu không? Hơn nửa thế kỷ trước, sẽ không có Internet, không có smartphone, điện thì chập chờn và tất nhiên nếu nhà nào sở hữu một cái tivi đen trắng thì trở thành trung tâm "chiếu phim" cho cả cộng đồng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã dựa vào hàng loạt lời nói dối về kinh tế để làm lung lay nhận thức của nhiều người về tình hình hiện tại. Trong bài viết này, chúng tôi xem xét một số lời nói dối lớn nhất và đưa ra bức tranh thực sự đằng sau những lời nói dối đó.
Trong 4 năm nhiệm kỳ của Tổng thống Trump, Big Media đã chế tạo ra bao nhiêu lời dối trá để bủa vây ông? Đã có bao nhiêu thông tin bị lật tẩy giúp công chúng được giải khai sự thật? Mời quý độc giả cùng NTD Việt Nam điểm lại 8 lời dối trá nổi bật nhất về ông Trump của Big Media, trong lúc chờ đợi các thông tin cập nhật từ các cuộc thanh tra kết quả bầu cử tại các tiểu bang Arizona và Georgia. Trong suốt 4 năm dẫn dắt nước Mỹ, cựu Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã đạt được rất nhiều thành tựu. Trong nước, ông Trump không chỉ lấp đầy nền sản xuất rỗng sau nhiều thập kỷ hoang phế, mang lại việc làm và sức tăng trưởng bền hơn cho nền kinh tế, ông còn khôi phục các giá trị truyền thống đang bị bào mòn, xâm lấn triệt để bởi tư tưởng cấp tiến như bảo vệ thai nhi.
Bảo Trợ