Tháng 10 là “tháng Mân côi” hay là “tháng truyền giáo”?

29 Tháng Chín 20197:21 CH(Xem: 1799)

Nhiều tập tài liệu do Hội Giáo hoàng Truyền giáo gửi đến các giáo phận và giáo xứ để cổ động cho “tháng 10 truyền giáo”? Tại sao tháng 10 gọi là tháng “truyền giáo”? Tháng 10 không phải là tháng dành kính Đức Mẹ Mân côi hay sao?
truyen giao

Việc dành tháng 10 làm “tháng truyền giáo” là một sáng kiến của Hội Truyền bá đức tin ở Italia, và có lẽ chỉ mới được quảng bá trong một vài quốc gia mà thôi. Nói chung, tại nhiều nơi trên thế giới, tháng 10 được dành kính Đức Mẹ Mân côi. Tuy lúc đầu là một sáng kiến cá nhân, nhưng kể từ năm 1883 (thông điệp Supremi apostolatus) đức thánh cha Lêô XIII đã chính thức phê chuẩn tập tục dâng kính tháng 10 để đọc kinh Mân côi. Nhiều vị giáo hoàng cũng xác nhận tập tục đó.

Tại sao lại còn sáng kiến dành tháng 10 làm tháng truyền giáo nữa? Có phải bởi vì ngày đầu tháng 10 kính thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu, bổn mạng các nơi truyền giáo không?

Thoạt tiên sự gán ghép này xem ra khá tự nhiên, cũng tương tự như việc dành trót tháng 10 kính Đức Mẹ Mân côi bắt nguồn từ lễ kính Đức Mẹ Mân côi được chỉ định vào Chúa nhật đầu tháng 10, do đức thánh cha Grêgôriô XIII vào năm 1573. Tuy nhiên, việc dành tháng 10 dành cho công tác truyền giáo không dựa trên lễ kính thánh Têrêsa Lisieux, nhưng là từ Ngày thế giới truyền giáo, được ấn định vào Chúa nhật áp chót trong tháng 10.

Ngày thế giới truyền giáo được thiết lập từ hồi nào?

Ngày thế giới truyền giáo mới được thiết lập vào năm 1926, do sáng kiến của Hội truyền bá đức tin vào lúc kết thúc phiên họp khoáng đại của Ban chấp hành của Hội vào tháng 3 năm 1926. Trong thỉnh nguyện đệ lên Đức thánh cha Piô XI, sau khi trích dẫn những lời của thông điệp Rerum Ecclesia (vừa ban hành ngày 16 tháng 2 cùng năm), trong đó ngài hô hào việc giúp đỡ công cuộc truyền giáo bằng lời cầu nguyện và bằng sự đóng góp, Hội đồng viết như sau: “Chúng con nghĩ rằng các miền truyền giáo sẽ được hưởng nhờ lợi ích không nhỏ, nếu Đức thánh cha cho thiết lập một ngày cầu nguyện và cổ động cho công cuộc truyền giáo, được diễn ra trong cùng một ngày trong khắp các giáo phận, giáo xứ và cơ quan thuộc Giáo hội công giáo. Ngày đó sẽ giúp cho việc ý thức vẻ cao quý của vấn đề truyền giáo; tăng gia lòng nhiệt thành nơi các giáo sĩ và giáo dân; giới thiệu cho mọi người được biết Hội Truyền bá đức tin; cổ võ việc ghi danh vào hội và đóng góp giúp đỡ các nơi truyền giáo”. Đề nghị này được Đức thánh cha Piô XI chấp thuận vào ngày 14/4, với phúc chiếu của Bộ Nghi lễ (AAS 19,1927, p.23 ss), bởi vì liên quan đến khía cạnh phụng vụ, nghĩa là được phép cử hành thánh lễ ngoại lịch về việc truyền bá đức tin (Pro propagatione fidei) trong một ngày Chúa nhật.

Tại sao lại chọn ngày truyền giáo vào tháng 10?

Trong thỉnh nguyện, không thấy viện dẫn lý do về việc chọn tháng 10 thay vì những tháng khác. Tuy nhiên, xem ra có một chi tiết hé mở phần nào động lực của nó. Ngày 11/12/1925, cũng chính đức thánh cha Piô XI ấn định Chúa nhật chót trong tháng 10 làm lễ kính Chúa Kitô Vua (thông điệp Quas primas), liền trước lễ kính các thánh nam nữ. Vì thế, hội giáo hoàng truyền giáo muốn dành Chúa nhật áp chót của tháng 10 làm ngày truyền giáo, bởi vì truyền giáo là gì nếu không phải là giúp cho mọi người nhìn nhận vương quyền của đức Kitô. Tuy nhiên, sau công đồng, lễ kính Chúa Kitô Vua được dời vào Chúa nhật chót của năm phụng vụ, thường là vào cuối tháng 11.

Ngày thế giới truyền giáo được cử hành từ hồi nào?

Như vừa nói, phúc chiếu của đức thánh cha được ký ngày 14/4/1926. Một năm sau, ngày 18/6/1927, hồng y Van Rossum mới quyết định tổ chức ngày thế giới truyền giáo lần đầu tiên vào Chúa nhật cuối tháng 10 năm ấy, cùng với vài chỉ thị, chẳng hạn như cần phải chuẩn bị tinh thần trước đó, qua việc cầu nguyện, cổ động việc ghi danh vào hội truyền bá đức tin, và lạc quyên tiền bạc và vật dụng giúp các miền truyền giáo. Rồi từ đó, hằng năm, bộ truyền giáo gửi lời kêu gọi đến các giám đốc hội truyền bá đức tin các quốc gia, để nhắc nhớ hoặc thúc giục việc tổ chức. Từ khi đức Phaolô VI đắc cử giáo hoàng vào năm 1963, lời kêu gọi của Bộ Truyền giáo được thay thế bởi một sứ điệp do chính đức thánh cha ký vào lễ Chúa Hiện xuống hàng năm. Tục lệ này vẫn còn duy trì đến nay, tuy rằng ngày ký sứ điệp được dời lên ngày lễ Chúa Giêsu lãnh phép rửa.

Ngày thế giới truyền giáo diễn ra vào Chúa nhật áp chót trong tháng 10. Như vậy chỉ có một ngày Chúa nhật trong tháng 10 được dành cho việc truyền giáo, chứ đâu phải là cả tháng?

Tuy ngày thế giới truyền giáo chỉ diễn ra vào một ngày Chúa nhật trong tháng 10, nhưng nhiều nơi đã muốn dành cả tháng vào công tác đó, bằng cách gán cho mỗi tuần lễ một khía cạnh của dự án. Tuần thứ nhất là “cầu nguyện”; bởi vì công việc truyền giáo cần được nâng đỡ bằng lời cầu nguyện. Thánh Têrêsa hài đồng Giêsu, một nữ tu dòng kín nhưng được đặt làm bổn mạng các nơi truyền giáo, là một tấm gương cho chúng ta. Tuần thứ hai nêu bật một khía cạnh khác mà chúng ta có thể đóng góp vào công cuộc truyền giáo là sự “hy sinh”. Tuần thứ ba dành cho việc gây ý thức về “ơn gọi” truyền giáo nằm trong bản chất của ơn gọi Kitô hữu. Tuần thứ bốn kêu gọi lòng “bác ái”, chia sẻ góp phần vào việc truyền giáo.

Có thể kết hợp giữa tháng 10 kính Đức Mẹ Mân côi với tháng 10 truyền giáo không?

Dĩ nhiên là có thể và cần phải kết hợp. Lý do là bởi vì cả hai đều nhắm tới một mục tiêu, đó là đào sâu thêm lòng gắn bó với Tin mừng của Chúa Giêsu, nhờ việc suy gẫm các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Cứu thế trong kinh Mân côi, để rồi loan truyền Chúa Kitô qua công cuộc truyền giáo. Mối liên hệ giữa kinh Mân côi với việc truyền giáo được nêu bật mới đây trong sứ điệp nhân ngày truyền giáo năm 2003, năm được Đức Gioan Phaolô II đặt dưới sự bảo trợ của kinh Mân côi nhân dịp kỷ niệm 25 năm đắc cử giáo hoàng. Trong sứ điệp vừa nói, đức thánh cha đã nêu bật vai trò của Mẹ Maria đối với sứ mạng truyền giáo của Hội thánh, và cách riêng tầm quan trọng của kinh Mân côi đối với công tác truyền giáo của Hội thánh.

Phần đầu của sứ điệp nhấn mạnh rằng: việc truyền giáo là một công trình siêu nhiên, vì thế cần được nâng đỡ bằng lời cầu nguyện. Tấm gương của Hội thánh tiên khởi, tụ họp nhau tại nhà Tiệc ly để cầu xin Chúa Thánh Thần, nhắc nhớ chúng ta điều đó. Thực vậy, truyền giáo không có nghĩa là tuyên truyền một học thuyết hay một ý thức hệ, nhưng tiên vàn là đem tình yêu của Chúa Giêsu đến cho mọi người. Điều này giả thiết rằng nhà truyền giáo phải quen biết Chúa Giêsu đã, chứ nếu không biết thì nói cái gì? Dưới phương diện này, nhà truyền giáo cần theo gương của Đức Maria, lắng nghe và nghiền ngẫm Lời Chúa ở trong lòng. Chính đây là cốt tủy của việc đọc kinh Mân côi: cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy chiêm ngắm tôn nhan Chúa Giêsu. Không những chúng ta bắt chước Mẹ trong việc chiêm ngắm cầu nguyện, nhưng chúng ta muốn nhờ Mẹ hướng dẫn trong việc tìm hiểu Chúa Giêsu, bởi vì trên đời này không có ai hiểu biết người con hơn chính bà mẹ. Đức Maria được ví như là ký ức sống động của Chúa Kitô.

Việc chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Kitô không chỉ dừng lại ở cấp độ lý thuyết, nhưng còn kèm theo việc uốn nắn tâm tình và cuộc sống hợp theo mẫu mực của Tin mừng. Đây cũng là một yêu sách nữa của việc truyền giáo: nhà truyền giáo cần loan báo Đức Kitô bằng lời nói, và nhất là bằng chính cuộc sống. Mình phải là người đã sống theo Tin mừng trước khi kêu gọi người khác trở về với Tin mừng. Ý thức như vậy, nhà truyền giáo đọc kinh Mân côi, xin Đức Maria uốn nắn tâm trí của mình hoà hợp với khuôn mẫu của Chúa Giêsu. Chính việc trở về với Tin mừng là bước đầu tiên và căn bản của công cuộc truyền giáo.

Sau cùng, nhà truyền giáo cũng xin Mẹ Maria khẩn nài Chúa Thánh Thần đến với Hội thánh, như xưa ở nhà Tiệc ly, để Hội thánh được thêm lòng hăng say với công cuộc làm chứng cho đức Kitô, cũng như tìm ra những phương tiện hữu hiệu để loan báo Tin mừng cho ngày hôm nay.

Có kinh “Mân côi truyền giáo nữa” phải không?

Trong khung cảnh của Năm Mân côi, hội Truyền bá đức tin đã soạn kinh Mân côi truyền giáo. Trọng tâm của kinh Mân côi vẫn là việc suy niệm các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Cứu thế, được phân phối sang 5 mầu nhiệm mùa Vui (mầu nhiệm Nhập thể), 5 mầu nhiệm sự sáng (mầu nhiệm cuộc đời truyền giáo của Chúa Cứu thế), 5 mầu nhiệm mùa thương (mầu nhiệm Tử nạn), và 5 mầu nhiệm mùa Mừng (mầu nhiệm Phục sinh). Khi suy gẫm các mầu nhiệm đó, Hội Truyền bá đức tin muốn kèm theo ý chỉ truyền giáo bằng cách dành mỗi chục cho một đại lục: chục thứ nhất mầu xanh lá cây cầu cho châu Phi; chục thứ hai mầu đỏ cầu cho châu Mỹ; chục thứ ba mầu trắng cầu cho châu Âu; chục thứ tư mầu xanh dương cầu cho châu Đại dương; chục thứ năm mầu vàng cầu cho châu Á.
Phan Tấn Thành
Dongten.net

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Xin gửi bài này đặc biệt đến các Bà Mẹ trong Hội các Bà Mẹ Công Giáo mà Thánh Nữ Monica là Thánh Bổn Mạng, nhất là các Bà Mẹ đang đau khổ trong nước mắt để cầu nguyện cho chồng và cho con.../25 Tháng Tám 2012(Xem: 8569) Lm. Anphong Trần Đức Phương - Tinmungnet /
Phan Tấn Thành Dẫn nhập Trong các tín biểu, lời tuyên xưng về Giáo hội (Ecclesia) thường được kèm theo vài tính từ, với con số thay đổi. Tín biểu Epistula Apostolorum (khoảng năm 170) chỉ gồm năm mệnh đề, và mệnh đề thứ bốn là: “et in sanctam Ecclesiam” (Denz-Sch 1). “Thánh thiện” là đặc điểm cổ nhất, nói lên sự thuộc về Thiên Chúa. Trong “Tín biểu các thánh tông đồ”, ngoài “sancta” khi thêm “catholica” (sanctam Ecclesiam catholicam); bên Đông phương, tín biểu của Cyrillô Giêrusalem (khoảng năm 348) viết «una santa Chiesa catholica» (Denz-Sch 41) và của Epiphaniô năm 374 “una sola sancta Ecclesia catholica et apostolica” (Denz-Sch 42), đưa đến công thức của công đồng Constantinopolis năm 381 « unam sanctam catholicam et apostolicam Ecclesiam». Trong lịch sử thần học, đã có những quan niệm khác nhau về bản chất của bốn đặc tính này cũng như công dụng của chúng.
Nhiều sách về Đức Mẹ đã được các học giả Tin lành viết, nhiều cuốn cổ vũ người Tin lành nhìn sát hơn vào Đức Mẹ. Nhiều câu chuyện về các Phật tử và những người ngoài Công giáo đã đến viếng Đền Đức Mẹ Lộ Đức. Mặt khác, các tín đồ Hồi giáo cũng rất tôn trọng Đức Mẹ. Thật vậy, Đức Mẹ được nói đến nhiều lần trong kinh Koran, sách thánh của Hồi giáo, nhiều hơn cả trong Kinh thánh!/17 Tháng Bảy 2014 (Xem: 4787) /
NHỮNG SAI PHẠM CỦA SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI 5. Các vấn đề liên hệ đến Hội Thánh. ▶5.1. Chối bỏ Huấn quyền của Hội Thánh. *SỨ ĐIỆP 06-04-2011. "...không một ai trong các con xứng đáng để phán xét hoặc tra xét về người khác. Không ai có quyền hạn hoặc hiểu biết thiêng liêng để đưa ra bất cứ sự đánh giá nào về đạo đức nơi người khác" NHẬN ĐỊNH. Nói như thế bà Maria Divine Mercy rõ ràng đã phủ nhận Huấn quyền của Hội Thánh. ▶5.2. Phủ nhận vai trò của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh. *SỨ ĐIỆP 12-04-2012. "Cơ mật viện Hồng Y bầu Giáo hoàng mới là những người theo bè Tam điểm, là tổ chức độc ác của Satan." NHẬN ĐỊNH. Rõ ràng bà Maria Divine Mercy không tin rằng Thánh Thần của Đức Kitô vẫn đang hiện diện và hoạt động trong Hội Thánh, không ngừng hướng dẫn Hội Thánh đạt đến chân lý toàn vẹn của Đức Kitô.
Nguồn gốc của mọi thiên chức linh mục Chủ đề linh mục là đề tài rất được quan tâm và mang tính thời sự trong thế kỷ qua. Công Đồng Vaticanô II đã dành trọn một tài liệu cho chủ đề này với sắc lệnh Presbyterorum Ordinis; năm 1992, thánh Gioan Phaolô II đã gửi tới toàn thể Hội Thánh tông huấn hậu thượng hội đồng Pastores Dabo Vobis, về việc huấn luyện các linh mục trong bối cảnh hiện nay; tiếp đến, khi công bố năm thánh linh mục 2009-2010, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã phác thảo cách vắn gọn nhưng rất sâu sắc dung mạo linh mục dưới ánh sáng cuộc đời của Cha Sở xứ Ars. Cùng với đó là vô số những suy tư của nhiều tác giả trên thế giới được thực hiện và nhiều cuốn sách viết về chân dung và sứ vụ của linh mục qua dòng thời gian, trong đó rất nhiều tác phẩm có giá trị.
Trải qua lịch sử, Chúa nhật sau lễ Phục sinh đã được gọi bằng nhiều danh xưng khác nhau: Chúa nhật tám ngày sau lễ Phục sinh, Chúa nhật “Áo trắng” (in Albis), bởi vì các tân tòng cởi chiếc áo trắng mà họ đã lãnh nhận khi lãnh các bí tích khai tâm vào đêm Vọng Phục sinh, đánh dấu việc kết thúc giai đoạn huấn giáo khai tâm. Tại vài Giáo hội bên Ấn độ (tục truyền do thánh Tôma tông đồ thành lập), Chúa nhật sau lễ Phục sinh được gọi là chúa nhật thánh Tôma, bởi vì bài Phúc âm thuật lại cuộc gặp gỡ của Người với Chúa Kitô. Gần đây, Đức Gioan Phaolô II muốn thêm một danh xưng nữa, đó là “Chúa nhật kính Lòng Chúa Thương Xót”. Trong Năm Thánh 2000, Đức Gioan Phaolô II đã ấn định rằng trong toàn thể Hội thánh, Chúa nhật sau lễ Phục sinh, ngoài danh hiệu Chúa Nhật Áo trắng, sẽ còn được đặt tên là Chúa nhật kính Lòng Chúa Thương Xót.
Hôm thứ Sáu 12 tháng Hai, 2021, Mùng Một Tết Tân Sửu, Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã công bố Sứ điệp Mùa Chay Thánh 2021 của Đức Thánh Cha Phanxicô. Nguyên bản tiếng Ý và các ngôn ngữ khác có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ. Sứ điệp Mùa Chay 2021 của Đức Thánh Cha Phanxicô “Nào chúng ta lên Giêrusalem” (Mt 20:18) Mùa Chay: Thời gian canh tân Niềm tin, Hy vọng và Tình yêu Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã mặc khải cho các môn đệ ý nghĩa sâu sắc nhất trong sứ vụ của Người khi loan báo cho họ cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người để hoàn thành Thánh ý Chúa Cha. Sau đó, Ngài mời gọi họ chia sẻ sứ mạng này để cứu độ thế giới.
WHĐ (15.2.2021) – Nhân kỷ niệm 60 năm thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam (1961 – 2021), chúng tôi xin được đăng bản dịch chính thức của Hội đồng Giám mục Việt Nam về Tông thư thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam – “Jam In Pontificatus” của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII gửi hàng Giáo phẩm Việt Nam ngày 14.1.1961. * * *
Thứ Tư Lễ Tro năm nay sẽ rơi vào ngày 17 tháng Hai. Hôm thứ Ba, Vatican đã đưa ra hướng dẫn về cách các linh mục có thể xức tro vào Thứ Tư Lễ Tro trong bối cảnh đại dịch coronavirus. Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích đã công bố một chỉ dẫn vào ngày 12 tháng Giêng, hướng dẫn các linh mục đọc công thức xức tro một lần cho tất cả mọi người có mặt, thay vì cho từng người. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ. Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích Công văn số 17/21 Chỉ dẫn cho ngày Thứ Tư Lễ Tro Việc xức tro trong thời gian xảy ra đại dịch Vị Linh mục đọc lời nguyện làm phép tro. Ngài rảy nước thánh lên tro, không nói gì cả. Sau đó, ngài nói với tất cả những người hiện diện chỉ một lần duy nhất công thức như được ghi trong Sách Lễ Rôma, áp dụng công thức ấy cho tất cả mọi người nói chung:
Ngày 1 tháng 10 năm 2010, Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình đã ra thông báo về án phong chân phước cho ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Thông báo viết: “Ngày 22 tháng 10 tới, tức 3 năm sau khi loan báo việc mở Án phong chân phước, sẽ có phiên họp trọng thể mở cuộc điều tra ở cấp giáo phận về đời sống, các nhân đức và đời sống thánh thiện của Đấng Đáng Kính, ĐHY Việt Nam Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, người đã là Phó Chủ Tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình từ năm 1994 và là Chủ tịch Ủy Ban này từ ngày 24 tháng 6 năm 1998 đến ngày 16 tháng 9 năm 2002”. Theo thông báo của Tòa Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh về việc điều tra án phong chân phước và phong thánh cho Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, do Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn ký ngày 1 tháng 1 năm 2012, chúng ta cùng tìm hiểu đôi nét về cuộc đời của Đấng Đáng Kính, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Bảo Trợ