Kỳ 2: Chia sẻ với dân oan
Đồng hành cùng những người dân oan trên vườn hoa Mai Xuân Thưởng, công viên Lý Tự Trọng, Hà Nội, có lẽ phải nhắc đến hai mảnh đời khá đặc biệt, bà H. và ông T. Đương nhiên, cả hai người này chắc chẳng ngại ngần gì nếu chúng tôi không giấu tên trong bài viết. Nhưng, vì những chuyện vừa tế nhị, vừa có tầm vóc lịch sử, chúng tôi quyết định không nêu tên hai người trong bài viết này.
Em bé thất học trong gia đình biểu tình mà bà H. đã nhắc đến. (Hình: Hoàng Hạc/Người Việt)
Trong những ngày mưa lạnh, giá rét, những dân oan luôn nhớ đến hình ảnh một người đàn ông gầy gò, 60 tuổi và một người đàn bà phúc hậu chừng 56 tuổi hay đi tập thể dục giữa khuya, đi chậm, nhẹ nhàng, đến chỗ những dân oan nằm co ro ngủ, khều nhẹ họ dậy và dúi vào tay họ vài chục ngàn đồng, có khi vài trăm ngàn với lời dặn: “Mai nhớ đi mua cái mền” hoặc “sáng nhớ đi mua mấy ký gạo nhé!”
Ông H. vốn là cán bộ ngành y tế đã về hưu, ông kể: “Tôi sống ở Hà Nội từ nhỏ, từ cái ngày mà lăng ông Hồ còn là mảnh đất hoang vu, rồi sau đó người ta đầu tư không biết bao nhiêu là tiền để xây dựng cái lăng ấy, đó là mồ hôi, là xương máu của nhân dân. Nhân dân bỏ xương máu ra để bảo vệ cái xác ông ấy, nhưng cái xác ấy lại không giúp gì được cho nhân dân ngoài sự mù mịt, tăm tối và tương lai đầy máu và nước mắt.”
“Những dân oan ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng bị vây bắt, bị xua đuổi, bị kẹp cổ bỏ lên xe, có người đang bệnh, tôi thấy họ van xin hãy tha cho họ, đừng mạnh tay với họ nhưng cuối cùng, họ cũng bị lôi cổ, kẹp nách, xốc lưng, trong chẳng khác nào người ta đối xử với súc vật. Và trong một nghĩa khác, cách đối xử với người cô thế như vậy chẳng khác nào cầm thú!”
“Đó là chưa nói đến những ngày giá rét, chờ cho trời thật lạnh, công an bố ráp, vây bủa, khiến cho họ sợ hãi, sau đó không bắt bớ gì nhưng lại thu sạch mùng mền, nồi niêu, chăn gối chở ra bãi rác để đổ. Nhìn những dân oan ngơ ngác, hoảng loạn, lúc ấy, tôi chỉ muốn khóc cho thật to, khóc cho thật đã, khóc cho rã kiếp người khốn nạn này. Làm người trên quê hương tôi sao đau khổ thế này!”
Nói đến đây, ông T. rươm rướm nước mắt, môi ông run run. Bà H. tiếp lời ông T.: “Dân mình khổ lắm, chúng tôi cũng chẳng sung sướng gì, với mấy đồng lương hưu còm, cộng thêm chút đỉnh tiền con cái cho ăn quà, chúng tôi trút ống mà tặng họ.”
“Tội nghiệp nhất vẫn là trẻ con, có mấy đứa nhỏ trong các nhóm dân oan, không đứa nào được đến trường, suốt ba, bốn năm trời sống trong lấy lất, đói khổ và lạnh lẽo như vậy, chắc sau này tụi nó không khỏe lắm đâu!”
“Tết Trung Thu, con người ta vui vẻ khắp đường, có cha mẹ chở đi chơi, có bánh Trung Thu, có lời chúc ngoan, có nhiều thứ, nhưng tụi trẻ con trong công viên thì lạnh lẽo, đói khát, nhiều bữa cơm không có mà ăn. Thậm chí hằng ngày phải đi nhặt đồng nát mà mua gạo. Cũng là con người cả thôi, sao mà đau khổ thế chứ!”
Nói đến đây, bà H. chép miệng, lắc đầu, thở dài.
Theo lời người bạn giới thiệu chúng tôi gặp hai ông bà thì trước đây hai ông bà có khá nhiều đất đai thời bao cấp, sau đó, do giữ được uy tín và vị thế trong chính quyền, không phải mất một tấc nào vào tay quan tham. Nhưng gần đây, hai ông bà đã bán dần bán mòn từng khoảnh đất, miếng nào cũng vài tỉ đến vài chục tỉ.
Nói là bán đất nhiều tiền, nhưng hai ông bà cho con cái một ít dành làm vốn, riêng hai ông bà thì dành toàn bộ thời gian còn lại cho việc từ thiện. Đối tượng từ thiện của hai ông bà cũng khá đặc biệt: Thành phần bị xem là ngụy đang nghèo khổ.
Có lẽ cũng vì có quá nhiều người cần hai ông bà chia sẻ, hơn nữa, thời gian ban đầu phải thân chinh vào tận miền Nam để bắt nối liên lạc, để tìm người chia sẻ nên số tiền có được của hai ông bà chẳng thấm là bao so với thực tế nghèo khổ của các thương binh chế độ Việt Nam Cộng Hòa, hai ông bà luôn sống trong đạm bạc, thanh bần.
Ông T. kể: “Tiền chúng tôi có được quá ư là ít so với những gì người nghèo cần, chẳng bao lâu lại phải bán đất. Cũng may là con cái chúng tôi rất vĩ đại, chúng nó biết thương người, chúng nó không theo đảng điếc gì sất. Ngày xưa, chúng tôi còn trẻ, mãi đuổi theo lý tưởng công bằng, văn mình, theo đảng. Nhưng khi nhận ra vấn đề, chúng tôi chỉ cho con mình thấy từ rất sớm. Những gì người ta hô hào lâu nay toàn là lừa dối!”
“Đất là đất của thiên nhiên, tạo hóa, tại sao cái lăng ông Hồ lại rộng cả mấy chục ngàn mét vuông chỉ để chứa một cái xác, trong khi những con người còn sống sừng sững ra đấy, những đứa bé còn cả một tương lai dài rộng lại bị hất ra đường, vô gia cư, đói lạnh, nếu không là máu lạnh thì là gì đây?”
Bà H. nói: “Tôi thương mấy đứa nhỏ theo cha mẹ đi kiện đất quá, chúng nó còn bé dại, làm vậy tội chúng, ban đầu tôi nghĩ rằng cha mẹ chúng ác quá, sao không để con trẻ ở nhà, đi học mà lại bắt chúng đi tranh đấu, đi khiếu kiện theo mình, chúng có biết gì đâu. Nhưng về sau, tìm hiểu tôi mới vỡ lẽ, vì cha mẹ chúng chẳng còn gì, bị áp bức ở địa phương. Nếu để chúng ở nhà, chắc chắn chúng còn mau hư hỏng hơn, mang chúng theo là một lựa chọn đau đớn, nhưng không còn lựa chọn nào khác!”
“Có bữa, tụi nó đi nhặt đồng nát, gặp đám trẻ bụi đời, bị bắt nạt, bị đánh tơi tả, bầm mình bầm mẩy, thấy vậy, tôi can, dắt chúng về lại công viên và cho tiền mua dầu xức. Nói xin lỗi chứ bây giờ họ nghèo đến độ mua một chai dầu xức phòng gió máy đêm hôm cũng không có. Đau khổ gì mà kinh khủng vậy chứ!”
Bằng những bữa cơm từ thiện, những bữa cơm tích cóp, đói khổ và lạnh lẽo, họ vẫn kiên trì biểu tình đòi đất. (Hình: Hoàng Hạc/Người Việt)
“Có con bé người Kiên Giang theo mẹ ra Hà Nội năm 1993 đến giờ, lúc nó ra đây, mẹ nó đang mang bầu em nó, giờ em nó đã lớn cao ngồng, cả hai chị em đều rất thông mình nhưng chẳng được học hành gì cả. Cuộc đời nó gắn với tấm bảng đeo trên cổ in hình ngôi nhà bị chiếm của cha mẹ nó.”
“Rồi ba đứa con nhỏ của một gia đình người Hà Nội, nhà ở ngoại ô, gần chân cầu Thăng Long, bị chiếm đất, đòi mãi không được, vác đơn lên vườn hoa Mai Xuân Thưởng, ăn Tết đã ba năm nay trong vườn hoa, không biết cái nhà là cái gì, cũng không biết cái trường ra sao. Cuộc đời u ám, tối tăm vô cùng!”
Nói đến đây, bà H. mủi lòng, khóc sụt sịt, chúng tôi cũng thấy cay đắng, xót xa cho kiếp người, một kiếp dân đen Việt Nam dai dẳng khổ đau!
Kỳ cuối - Những người giàu lòng tự trọng
Trong hàng trăm, hàng ngàn con người phải chịu cảnh màn trời chiếu đất giữa thủ đô Hà Nội hoa lệ, dường như cùng có chung một điểm: Vẫn hy vọng vào điều tốt đẹp, tin tưởng vào công lý và kiên nhẫn chờ đợi. Đó cũng là tâm lý chung của nhiều người khác đang sống một cuộc đời chua chát giữa thành phố này.
Cuộc đời trôi dạt của người đàn bà bán trái cây trên thủ đô Hà Nội. (Hình: Hoàng Hạc/Người Việt)
Chị Huyền, người bán nhang đèn, bán chả ở góc đường Yết Kiêu, nói: “Chừng hai mươi năm trước, mình mua bán dễ thở, dễ sống, còn bây giờ chua chát quá, bán cả ngày không đủ tiền đi chợ, ba năm trở lại đây, ngột ngạt vô cùng!”
“Càng ngày, những người có chức quyền thì càng giàu ra, bao nhiêu nhà cao cửa đẹp dựng lên, còn đời sống những người như tụi tôi thì lụi dần, kiếm ăn vất vả vô cùng, ở thành phố này có người ăn tô phở gần một triệu đồng thì cũng có người mỗi ngày đi chợ bằng mấy chục ngàn đồng, thậm chí ăn bữa trước thiếu bữa sau. Tôi cũng là một trong những trường hợp đó.”
“Tôi có một đứa con duy nhất nhưng nó chẳng được học lên đại học, đó là cái lỗi của tôi, ngay từ những ngày nó học trung cấp, tôi đã có ý định cho nó nghỉ học đi làm phụ giúp cho tôi, mặc dù nó học rất giỏi. Nhưng tôi thấy mình không có cơ sở cho nó đi học, nhà thì ở nhà thuê, kiếm ăn qua bữa, lấy đâu mà thế chấp, vay mượn. Giờ con tôi đang đi làm công nhân xí nghiệp.”
Chị Huyền im lặng một lúc rồi thở dài, buông một câu: “Có ước mơ cũng phải có tiền, có quyền. Chỉ có người giàu và người quyền thế mới được ước mơ!”
Chị Th., bán trái cây bên bờ hồ Tây đã hai mươi năm nay, tuy mới chưa đầy năm mươi tuổi nhưng lưng chị đã bắt đầu khòm, hai bàn tay nhăn nheo, ánh mắt mệt mỏi, chị cho biết: “Tôi bán trái cây dạo và ăn Tết với bà con dân oan đã ba năm nay rồi, năm nào họ cũng đói rách, chẳng có ông nhà nước nào giúp họ hết. Riêng tôi thì may mắn hơn họ, mình còn có đôi gánh trái cây để duy trì qua ngày tháng.”
“Những người nông dân mất đất, đi kiện, thấy họ nghèo khổ, đói rách cũng thương họ thật, đau thật, những đôi khi nhìn họ rồi ngẫm lại mình, thấy đau lắm, chí ít thì họ cũng có đất cắm dùi để mất, rồi đi kiện, chứ như mình, không có lấy một mét đất cắm dùi, cả đời sống nhà trọ, bữa nào trúng mánh thì dành dụm cho ngày đau ốm, mà có đau ốm cũng phải ráng mà đi bán, để có tiền trọ, chứ hết tiền, chủ nhà nói rất khó chịu, đó là chưa nói bị đuổi ra đường!”
Chị Th. còn kể thêm rằng trong cuộc đời chưa đầy năm mươi năm của mình, chị đã mười sáu lần đi lang thang tìm phòng giá rẻ, mười một lần bị chủ nhà đuổi ra đường vì nợ tiền phòng. Chồng chết sớm, chị phải gởi hai đứa con cho ông bà nội ở quê, hằng tháng về thăm và mua sắm cho chúng. Hai đứa con của chị, một đứa đang học năm thứ hai đại học, một đứa học lớp 12.
Cả hai đứa con đều mới biết chị đi bán trái cây trong mấy năm gần đây.
Chung thân phận, ngành nghề với chị Th., ở Hà Nội, có trên dưới hai ngàn người từ khắp các ngõ quê lên phố lang thang bán trái cây, bán lạc rang, bán nước sấu, me ngào, bán vài lọ kẹo... Có một điều lạ là những người này, dù học hành không có bằng tiến sĩ này, bằng thạc sĩ nọ, cuộc đời thì nay gầm cầu, mai nhà trọ, mốt vườn hoa nhưng họ lại có một tâm hồn rất cao đẹp, giữ lòng tự trọng và sẵn sàng chia sẻ.
Chị Quyên, người bán nước sấu, nước me và cóc, me, xoài, ổi ở bờ hồ Hoàn Kiếm, tuy có đời sống khá chật vật, mỗi ngày kiếm cao nhất chừng 200 ngàn đồng, có hôm kiếm được vài chục ngàn đồng không đủ đi chợ nấu ăn nuôi người chồng bị đau cột sống và hai đứa con còn đi học. Nhưng chị có một nguyên tắc rất kỳ cục: Không cho người nước ngoài chụp hình mình, không bán hàng cho người Trung Quốc và không nhận tiền của ai cho.
Khi chúng tôi đặt câu hỏi vì sao lại không cho người nước ngoài chụp hình, chị trả lời: “Ban đầu tôi cũng cho họ chụp, nhưng họ cào bằng quá, họ mang về bên nước họ, bêu riếu tôi bằng câu chú thích bên dưới hình mang nội dung đây là hình ảnh của cuộc đời bần cùng, thiếu văn hóa ở Hà Nội. Như vậy là họ đã nói sai sự thật, chúng tôi nghèo thật, nhưng chúng tôi không thiếu văn hóa. Từ đó đến giờ tôi không cho ai chụp hình nữa.”
“Bán hàng cho người Trung Quốc, tôi mà nghe giọng xí lô xí là là lắc đầu, không bán, có lẽ tôi cực đoan, vì người Trung Quốc cũng có kẻ xấu, người tốt. Nhưng hiện tại, họ đang bành trướng mình từ mọi hướng, biết ai là người tốt, nên hay hơn hết là tuyệt giao, không chơi với họ trong lúc này, không mua hàng hóa Trung Quốc, mặc dù mua hàng Việt mắc hơn, mình vất vả hơn, nhưng mình là người Việt kia mà!”
Uống nước sấu và trò chuyện xong, chúng tôi gửi tiền nước tờ một trăm ngàn đồng, chị nói tổng cộng là ba mươi ngàn đồng, trả lại cho chúng tôi bảy mươi ngàn, chúng tôi xua tay, nói thôi chị giữ mua quà cho mấy cháu nhỏ, chị nói: “Các anh chị ghé Hà Nội lần sau nhớ ghé quán tôi uống nước ủng hộ, vậy là tôi vui lắm rồi, còn tiền dư xin hãy cầm, vì đó cũng là nguyên tắc của tôi. Tôi muốn nhận được sự ngưỡng mộ về một người Hà Thành từ các anh chị.”
Nói xong, chị mỉm cười rất tự nhiên, hồn hậu.
Gần chỗ chúng tôi trọ, có một quán phở khá ngon, chủ của quán phở vốn là công chức nhà nước nhưng bỏ ngang việc, không nhận được đồng chế độ nào, về nhà mở quán phở gà, phở ngan cùng chồng con bán từ sáng đến tối.
Có thể nói đây là quán phở rẻ, lịch sự, bụi đời và ngon nhất Hà Nội. Nhìn bát phở lơ thơ vài cọng hành, nước nhưn trong và thơm phưng phức, lát thịt gà, thịt ngan được thái mỏng, theo sớ nghiêng trông vừa đẹp vừa ngọt cộng với người chủ quán thân thiện, nói giọng Bắc Kỳ êm êm. Chưa ăn đã thấy ngon, ăn xong, với giá ba mươi ngàn đồng một tô, đúng là ngon miễn bàn.
Nhưng đặc biệt hơn cả vẫn là phong cách và quan niệm sống của vợ chồng chị chủ quán phở. Chị thì quản thùng nước nhưn, anh thì chăm chuốt bình chè xanh và chiếc điếu cày, tính anh trầm, hay cười nhẹ, còn chị thì nồng ấm hơn. Nhưng cả hai anh chị đều có một nhận định chung: “Người Hà Nội gốc vẫn còn rất hay!”
“Người Hà Nội gốc, cho đến bây giờ, vẫn còn văn hóa chia sẻ và lòng tự trọng, ví dụ như mình nhìn thấy ai bị cướp giật thì sẵn sàng nhảy vào truy bắt, thấy đánh nhau thì xông vào can, thấy kẻ mạnh hiếp yếu thì xông vào bênh người yếu... Bây giờ mình thấy chuyện này hiếm.”
“Ngay cả lòng tự trọng đích thực, cũng chỉ có người Hà Nội còn giữ được, như vợ chồng tôi chẳng hạn, khi thấy trình độ lớp sau nó hơn hẳn mình, mình không còn làm việc kịp tụi nó nữa, tụi tôi bỏ việc, về mở quán phở, chứ không giống như những người Hà Nội quyền thế, miệng thì bai bải dạy người khác lòng tự trọng mà trong lòng thì đen tối, làm sai, phá hỏng không biết bao nhiêu tài sản của nhân dân, đất nước mà chỉ nói một câu xin lỗi!”
“Những kẻ không có lòng tự trọng như thế, nấu phở bán cho người ta ăn sáng cũng chẳng ra gì, cũng chẳng có ma nào thèm ăn chứ đừng nói làm lãnh đạo! Nghĩ đến đất nước, thấy buồn quá!”
Lạ, những người dân lây lất kiếm cơm quá bữa, những bà, những chị bán phở, bán trái cây nhưng lại có lòng tự trọng rất cao. Họ nghèo khó, nhưng họ yêu nước và bán những thứ lặt vặt để sống qua ngày, họ không bán nước giống những kẻ quyền thế đã đánh mất lòng tự trọng, mất tư cách, nhân cách một con người!