Bài Giáo Lý của ĐTC Bênêđictô XVI về Chúa Phục Sinh

19 Tháng Tư 20142:00 CH(Xem: 1823)

Bài Giáo Lý của ĐTC Bênêđictô XVI về Chúa Phục Sinh

blank“Ngày nay cũng thế, Đấng Phục Sinh cũng vào trong nhà và trong tâm hồn chúng ta, mặc dù đôi khi những cánh cửa bị đóng lại. Người đi vào để ban niềm vui và sự bình an, sự sống và hy vọng.

 

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý về Chúa Phục Sinh của ĐTC Bênêđictô XVI ban hành trong buổi triều yết chung ngày Thứ Tư 11 tháng 4 năm 2012 tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Bài này được dịch từ bản tiếng Pháp trên trang web Tòa Thánh Vatican.

 

* * * * *

 Anh chị em thân mến,

Sau những cuộc cử hảnh long trọng Lễ Phục Sinh, cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay được thấm đậm niềm vui tinh thần, ngay cả khi bầu trời ảm đạm, chúng ta mang trong lòng mình niềm vui Phục Sinh, niềm xác tín về sự Sống Lại của Đức Kitô, Đấng đã dứt khoát chiến thắng tử thần. Trước hết tôi xin nhắc lại với từng người trong anh chị em lời chúc mừng Phục Sinh chân tình của tôi: nguyện chúc trong mọi nhà và trong mọi tâm hồn được nghe lời loan báo vui mừng về việc Phục Sinh của Đức Kitô, để niềm hy vọng được hồi sinh.

Trong bài giáo lý này, tôi muốn chỉ cho anh chị em thấy sự biến đổi mà lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu đã đem lại cho các môn đệ. Chúng ta hãy hãy bắt đầu bằng buổi chiều ngày Phục Sinh. Các môn đệ ở trong nhà đóng kín cửa vì sợ người Do Thái (x. Ga 20:19). Sự sợ hãi làm se thắt con tim và ngăn cản không cho nó đến với tha nhân, với sự sống. Thầy không còn ở đó nữa. Hồi tưởng về cuộc Khổ Nạn của Người làm tăng thêm sự bất an. Nhưng Chúa Giêsu quan tâm đến những kẻ thuộc về Người và sắp sửa làm tròn lời hứa mà Người đã nhắc đến trong Bữa Tiệc Ly: Thầy sẽ không để các con mồ côi. Thầy đến cùng các con.” (Ga 14:18) và Người cũng nói lời ấy với chúng ta, ngay cả trong những lúc đen tối:Thầy sẽ không để các con mồ côi.”  Tình trạng lo âu này của các môn đệ thay đổi một cách hoàn toàn với sự xuất hiện của Chúa Giêsu. Người đã vào trong [nhà] mặc dù các cửa đóng kín, Người đứng giữa các ông và ban cho các ông sự bình an được đảm bảo:Bình an cho các con!” (Ga 20:19b). Đó là một lời chào thông thường nhưng giờ đây có một ý nghĩa mới, bởi vì nó tạo ra một sự thay đổi nội tâm; đó là lời chào Phục Sinh, làm cho các môn đệ thắng vượt mọi sợ hãi. Sự bình an mà Chúa Giêsu mang lại là hồng ân cứu độ mà Người đã hứa trong những bài huấn từ giã biệt của Người: Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian cho các con. Đừng để cho lòng các con lo âu, hay sợ hãi. (Ga 14, 27). Trong ngày Phục Sinh này, Người đã bình an tràn đầy và nó sẽ trở thành nguồn an vui, sự chắc chắn của chiến thắng, và an ninh cho cộng đồng trong sự nâng đỡ của Thiên Chúa. Người cũng nói với chúng ta“Đừng hoảng hốt và sợ hãi” (x. Ga 14:1).

Sau lời chào này, Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy những vết thương ở bàn tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20:20), là những dấu hiệu của những gì đã xảy ra và sẽ không bao giờ bị xóa mờ nữa: nhân tính vinh quang của Người đang “bị thương tích”. Cử chỉ này có ý xác nhận thực tại mới của sự Phục Sinh: Đức Kitô, Đấng đang hiện diện giữa chúng ta là một người thật, là cùng một Chúa Giêsu, Đấng mà ba ngày trước đó đã bị đóng đinh vào thập giá. Và chính vì thế, trong ánh sáng chói lọi của Phục Sinh, trong cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh, các môn đệ hiểu được ý nghĩa cứu độ của Cuộc Khổ Nạn và Cái Chết của Người. Vì vậy, các ông đi từ buồn rầu và sợ hãi đến niềm vui trọn vẹn. Sự buồn rầu và chính các thương tích trở thành một nguồn vui. Niềm vui được sinh ra trong tâm hồn của các ông khi các ông được thấy Chúa” (Ga 20:20). Người nói với các ông một lần nữa, “Bình an cho các con! (c. 21). Giờ đây lời này rõ ràng không chỉ còn là một chào thông thường nữa. Nó là một hồng ân, hồng ân mà Đấng Phục Sinh muốn ban cho các bạn hữu của Người, và nó đồng thời cũng là một mệnh lệnh: sự bình an này mà Đức Kitô chiếm được nhờ Máu Người, được dành cho các ông, nhưng cũng cho tất cả mọi người, và các môn đệ sẽ phải mang nó đến cho toàn thế giới. Thật vậy, Người nói thêm: Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con.” (ibid.). Chúa Giêsu Phục Sinh đã trở lại giữa các môn đệ của Người để sai các ông đi. Người đã hoàn tất công trình của Người trên thế gian, và giờ đây đến lượt các ông đi truyền bá đức tin trong các tâm hồn, ngõ hầu người ta biết đến và yêu mến Đức Chúa Cha, cùng quy tụ tất cả con cái tản mác của Ngài ở khắp nơi về. Nhưng Chúa Giêsu biết rằng giữa những kẻ thuộc về Người, luôn luôn vẫn còn rất nhiều sợ hãi. Đó là lý do tại sao Người làm cử chỉ thổi hơi vào các ông và tái sinh các ông trong Thánh Thần (x. Ga 20:22), cử chỉ này là một dấu chỉ của việc tạo dựng mới. Thực ra, với hồng ân Thánh Thần đến từ Đức Kitô Phục Sinh, một thế giới mới được bắt đầu. Với việc sai các môn đệ đi truyền giáo, khai trương con đường vào thế gian của dân giao ước mới, một dân tin vào Người và công trình cứu độ của Người, một dân làm chứng cho sự thật của việc Phục Sinh của Người. Sự mới mẻ của một cuộc sống không chết, được lễ Phục Sinh mang lại, phải được loan truyền khắp nơi, ngõ hầu các gai góc của tội lỗi đang làm tổn thương các tâm hồn con người nhường chỗ cho hạt giống ân sủng của sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa là Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết.

Các bạn thân mến, ngày nay cũng thế, Đấng Phục Sinh cũng vào trong nhà và trong tâm hồn chúng ta, mặc dù đôi khi những cánh cửa bị đóng lại. Người đi vào để ban niềm vui và sự bình an, sự sống và hy vọng, là những hồng ân mà chúng ta cần cho việc tái sinh nhân bản và tinh thần của mình. Chỉ có Người mới có thể lay chuyển những tảng đá lấp mồ này, mà con người thường đặt trên các tình cảm, các mối liên hệ, và các cách đối xử của riêng mình, các tảng đá đánh dấu cái chết là các sự chia rẽ, hận thù, bất hòa, oán hờn, ghen tỵ, hoài nghi và thờ ơ. Chỉ có Người, Đấng Hằng Sống, mới có thể ban một ý nghĩa cho cuộc đời và làm cho người mệt mỏi và buồn rầu, mất niềm tin và không còn hy vọng tiếp tục chặng đường. Đó là kinh nghiệm mà hai môn đệ trên đường từ Giêrusalem về Emmau đã trải qua trong ngày Phục Sinh (x. Lc 24:13-35). Hai ông nói về Chúa Giêsu, nhưng khuôn mặt của hai ông “rất buồn rầu” (câu 17) bày tỏ những hy vọng đã tan tành, sự bất ổn và u sầu. Hai ông đã bỏ quê hương để theo Chúa Giêsu với các bạn hữu của hai ông, và hai ông đã khám phá ra một thực tại mới, trong đó sự tha thứ và tình yêu không còn chỉ là lời nói, nhưng là sự chạm đến cách cụ thể sự hiện hữu của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu thành Nazareth đã đổi mới mọi sự, đã thay đổi cuộc đời của hai ông. Nhưng giờ đây Người đã chết và tất cả mọi sự hầu như chấm dứt.

blankTuy nhiên, thật bất ngờ, không còn là hai người, nhưng ba người khách bộ hành. Chúa Giêsu đến gần hai môn đệ và đi với hai ông, nhưng hai ông không thể nhận ra Người. Tất nhiên hai ông đã nghe nói về việc Sống Lại của Người, thực ra, các ông nói với Người, “Thật thế, mấy người phụ nữ trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc, họ ra mộ hồi tảng sáng, và khi họ không tìm thấy thi hài của Người, họ về kể cho chúng tôi là đã thấy thiên sứ hiện ra nói rằng Người vẫn còn sống.” (câu 22 – 23). Tuy nhiên, tất cả những điều này không đủ để thuyết phục hai ông, bởi vì chính Người thì họ đã không thấy” (câu 24). Khi đó Chúa Giêsu kiên nhẫn bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những đoạn trong toàn thể Kinh Thánh liên quan đến Chính Người” (c. 27). Đấng Phục Sinh giải thích Thánh Kinh cho các môn đệ bằng cách ban cho các ông chìa khóa để đọc hiểu nền tảng của điều ấy, nghĩa là về chính Người và Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người: Thánh Kinh làm chứng về Người (x. Ga 5:39-47). Ý nghĩa của mọi sự, của Lề Luật, của các lời ngôn sứ, và của các Thánh Vịnh thình lình mở ra và trở nên rõ ràng trước mắt hai ông. Chúa Giêsu đã mở tâm trí cho hai ông hiểu Thánh Kinh (x. Lc 24:45).

Trong khi đó, các ngài đã đến làng, có lẽ là nhà của một trong hai ông. Người khách lạ “làm bộ như còn đi xa hơn nữa” (c. 28), nhưng sau đó ông dừng lại vì hai ông tha thiết nài xin: Hãy ở lại với chúng tôi” (c. 29). Chúng ta cũng thế, chúng ta phải luôn nhiệt thành lập đi lập lại cùng Chúa: Xin ở lại với chúng con.”Khi ngồi ăn cùng hai ông, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông.” (c. 30). Việc này hiển nhiên nhắc lại những cử chỉ mà Chúa Giêsu đã làm trong Bữa Tiệc Ly. “Sau đó, đôi mắt của hai ông mở ra và các ông nhận ra Người” (c. 31). Sự hiện diện của Chúa Giêsu, trước tiên là với lời nói, rồi với cử chỉ bẻ bánh, làm cho các môn đệ nhận ra Người và hai ông có thể cảm nhận một cách mới mẻ điều hai ông đã cảm thấy trong khi đồng hành với Người: “Tâm hồn chúng ta đã không rạo rực khi Người đàm luận với chúng ta dọc đường và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta sao?” (c. 32). Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng có hai “nơi” đặc quyền mà ở đó chúng ta có thể gặp gỡ Đấng Phục Sinh là Đấng biến đổi cuộc đới mình: việc lắng nghe lời Chúa, trong sự hiệp thông với Đức Kitô, và việc bẻ bánh; và hai “nơi” này liên hệ sâu xa với nhau, bởi vì “Lời Chúa và Thánh Thể mật thiết gắn liền với nhau (Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục, Verbum Domini, 54-55).

Sau cuộc gặp gỡ này, hai môn đệ “đứng dậy và trở về Giêrusalem, ở đó hai ông và gặp Nhóm Mười Một đang tụ họp với các bạn hữu. Họ nói với hai ông, ‘Chúa thật sự đã sống lại và đã hiện ra với Simon Phêrô.’” (cc. 33-34). Ở Giêrusalem, hai ông nghe thấy tin tức về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, và đến lượt hai ông, hai ông kể lại kinh nghiệm của mình, được đốt cháy với tình yêu dành cho Chúa Phục Sinh, Đấng đã mở tâm hồn hai ông để đón nhận một niềm vui bất khuất. Hai ông – như Thánh Phêrô nói –được tái sinh trong một niềm hy vọng sống động, nhờ sự Sống Lại của Đức Giêsu Kitô từ cõi chết” (1 Pr 1, 3). Quả thật, nhiệt tình của đức tin, tình yêu thương dành cho cộng đồng, sự cần thiết phải thông truyền tin mừng cho những người khác được tái sinh trong các ông. Thầy đã sống lại và cùng với Người tất cả sự sống được tái sinh; đối với các ông việc làm chứng cho biến cố này trở thành một điều thiết yếu mà không gì có thể cản trở được.

Các bạn thân mến, mùa Phục Sinh cho chúng ta cơ hội lý tưởng để tái khám phá ra với niềm vui và sự nhiệt tình những nguồn mạch của đức tin, sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh giữa chúng ta. Điều này được thực hiện theo cùng một đường như Chúa Giêsu đã làm cho hai môn đệ làng Emmaus, qua việc tái khám phá Lời Chúa và Thánh Thể, nghĩa là cùng đi với Chúa và để cho đôi mắt mở ra đối với ý nghĩa thật sự của Thánh Kinh và sự hiện diện của Người trong việc bẻ bánh. Tột đỉnh của con đường này, từ hôm nay và sau đó, là sự hiệp thông Thánh Thể: trong sự hiệp thông này, Chúa Giêsu nuôi dưỡng chúng ta bằng Mình và Máu Người, để Người hiện diện trong cuộc đời chúng ta, để đổi mới chúng ta, để nó được sinh động bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Tóm lại, kinh nghiệm của các môn đệ mời gọi chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của lễ Phục Sinh đối với chúng ta. Hãy để Chúa Giêsu Phục Sinh gặp gỡ chúng ta! Người, Sự Sống và Sự Thật, vẫn luôn hiện diện giữa chúng ta: Người cùng đi với chúng ta để hướng dẫn cuộc đời chúng ta, để mở mắt chúng ta. Chúng ta hãy tin vào Đấng Phục Sinh, là Đấng có khả năng ban sự sống, làm cho chúng ta được tái sinh thành con cái Thiên Chúa, có khả năng tin tưởng và yêu thương. Đức tin vào Người biến đổi cuộc đời chúng ta: đức tin này là sự giải phóng khỏi sợ hãi, nó cho chúng ta một niềm hy vọng chắc chắn, nó linh hứng bằng cách làm cuộc sống có đầy ý nghĩa, ý nghĩa ấy là tình yêu của Thiên Chúa. Cảm ơn anh chị em.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Nguồn: giaoly.org
 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
– Vào thứ Ba 8-12-2020, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã công bố Năm Thánh Giuse, để kỷ niệm 150 năm ngày thánh nhân được công bố là người bảo trợ Giáo hội hoàn vũ. Đức Giáo hoàng Phanxicô cho biết ngài thiết lập Năm Thánh này để “mọi tín hữu theo gương Thánh Giuse, củng cố đời sống đức tin bằng cách hằng ngày thực hiện trọn vẹn ý muốn của Chúa.” Dưới đây là những điều bạn cần biết về Năm Thánh Giuse: Tại sao lại có những năm được mang các chủ đề cụ thể (từ Giáo hội)? Giáo hội cử hành diễn trình của thời gian qua lịch phụng vụ - bao gồm các lễ như Phục sinh và Giáng sinh, và các mùa như Mùa Chay và Mùa Vọng. Ngoài ra, các vị Giáo hoàng còn có thể dành riêng những khoảng thời gian nào đó để Giáo hội suy ngẫm sâu sắc hơn về một khía cạnh cụ thể của giáo huấn hoặc niềm tin Công giáo. Một số năm trước đây đã được các vị giáo hoàng gần đây chọn lựa như thế, bao gồm Năm Đức Tin, Năm Thánh Thể và Năm Thánh Lòng Thương Xót.
Tại Việt Nam, ít ai biết được rằng 150 năm trước khi thi hào Nguyễn Du qua đời (1820), văn chương Công giáo đã có một tác phẩm lục bát bằng chữ Nôm đạt mức tuyệt tác: Tác phẩm Sấm Truyền Ca (1670), diễn ca 5 quyển đầu của Cựu Ước, do cha Lữ Y Đoan, một trong những linh mục thế hệ đầu của địa phận Đàng Trong. Cũng chính năm 1820 tác phẩm được phiên âm sang chữ quốc ngữ. Sau một vận mệnh hẩm hiu suốt hơn ba trăm năm, cuối thế kỷ XX chỉ còn hơn 1/5 tác phẩm sống sót: Sách Sáng Thế Ký (Tạo đoan kinh) và 21 chương đầu của sách Xuất Hành (Lập quốc kinh). Năm 1993 một số trí thức Công giáo đã thực hiện hồ sơ “Về các tác giả Công giáo thế kỷ XVII-XIX”, do Khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp Tp HCM ấn hành. Quyển sách đã giới thiệu tác phẩm Sấm Truyền Ca đến công chúng.
Từ ngữ: tuyên thánh đúng hơn là phong thánh: Từ phong thánh quen dùng trong tiếng Việt, nguyên ngữ từ tiếng Hy Lạp “Kanon” có nghĩa là thước đo hay tiêu chuẩn hay được nhìn nhận là có giá trị. Ý nghĩa nầy được tìm thấy trong động từ canonizare của tiếng La tinh, rồi canoniser trong tiếng Pháp và Canonize trong tiếng Anh. DHYThuan-ChaDiep.jpg Những tín hữu trong thế kỷ đầu đã phong thánh cho các Tông Đồ khi gọi các Ngài là Thánh. Những vị tử đạo cũng được gọi là thánh. Rồi những thế kỷ kế tiếp, những giáo dân có đời sống thánh thiện, nêu gương sáng và thành mực thước cho người đời cũng được tuyên bố “đang ở trên thiên đàng” tức là thánh. Như vậy theo từ Kanon và theo truyền thống, Giáo Hội không hề phong thánh hay không hề làm cho ai thành thánh cả. Giáo Hội, qua thời gian cầu nguyện lâu dài và qua những phép lạ được thực hiện nhờ lời chuyển cầu của ...
I. Nữ vương các thánh tử đạo 1) Tại sao Đức Maria được gọi là Nữ vương các thánh tử đạo? 2) Tại sao chọn Nữ vương các thánh tử đạo làm bổn mạng tỉnh dòng? 3) Tỉnh dòng có tình cảm gì đối với Nữ vương các thánh tử đạo? II. Nữ vương các chứng nhân 1) Tân ước có nền tảng cho tước hiệu Đức Maria “Nữ vương các chứng nhân” không? 2) Đức Maria đã sống đời chứng nhân đức tin như thế nào? 3) Tước hiệu “Nữ vương các chứng nhân” có ý nghĩa gì đối với chúng ta? ————- Đây không phải là lần đầu tiên tôi được mời chia sẻ với anh em nhân dịp bổn mạng tỉnh dòng. Vì không muốn lặp lại những điều đã trình bày cho nên năm nay tôi muốn tìm một lối tiếp cận mới liên quan đến danh hiệu bổn mạng tỉnh dòng, qua tựa đề: “Nữ Vương các tử đạo hay Nữ vương các chứng nhân?” Xin anh em hãy kiên nhẫn chịu tử đạo khi nghe bài suy niệm hơi dài, và có thể gây nhiều cú sốc.
Phan Tấn Thành Tại một số nhà thờ mới cất bên Việt Nam, người ta thấy trên Thập giá thay vì tượng Chúa chịu nạn lại có tượng Chúa Phục sinh hay Linh mục Thượng phẩm. Tại sao lại có sự thay đổi ấy? Từ sau công đồng Vaticanô II, người ta chứng kiến một số thay đổi trong lãnh vực phụng vụ. Thoạt tiên xem ra có vẻ mới, và khiến cho có người băn khoăn: phải chăng công đồng Vaticanô II đã thay đổi đức tin của Giáo hội? Thế nhưng nếu xét kỹ ra, thì nhiều sự thay đổi không hoàn toàn mới nhưng lấy lại truyền thống từ lâu đời của Giáo hội mà thôi. Tỉ như ngôn ngữ dùng trong phụng vụ: vào những thế kỷ đầu, phụng vụ được cử hành bằng tiếng địa phương, và thậm chí tại Rôma ngôn ngữ của phụng vụ là tiếng Hy-lạp, tức là tiếng giao thông thương mại thời đó, chứ không phải là tiếng La-tinh. Ta cũng có thể nói một cách tương tự như vậy về việc thay đổi tượng Chúa chịu nạn bằng tượng Chúa Phục sinh: đây không phải là sự canh tân, song là trở về nguồn.
Trả lời: Vâng, quả thật hộp sọ xuất hiện rất thường xuyên trong nghệ thuật Ki-tô Giáo và ngay cả ngày nay. Tôi có thể hiểu câu hỏi của bạn về thực hành này; bởi vì việc đặt hộp sọ ở khắp mọi nơi có vẻ như là một cái gì đó không lành mạnh – đặc biệt đối với những người đang sống trong một xã hội tiêu dùng và thế tục, nơi người ta thường lảng tránh suy nghĩ về những điều sâu sắc chẳng hạn như cái chết và những gì xảy ra sau đó. Một hộp sọ lành mạnh Khi nghệ thuật Ki-tô Giáo miêu tả những hộp sọ ở gần các vị thánh, nó tượng trưng cho sự khôn ngoan và thận trọng của các ngài. Hộp sọ là hình ảnh đại diện một cách sống động và hấp dẫn về cái chết của con người.
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma. Hỏi: Thưa cha, liệu Thánh lễ cầu cho người khi còn sống là hiệu lực hơn (mạnh hơn) so với Thánh lễ cầu nguyện sau khi đã chết không? Thánh Anselmô (Anselm) và ĐGH Biển Đức XV đã nói Thánh lễ cầu cho khi còn sống là hiệu lực hơn. Xin cha bình luận việc này cho nhiểu người biết. - S. T., Chicago, Hoa Kỳ Đáp: Trong khi bạn đọc trên không cung cấp nguồn của các ý kiến này của thánh Anselmô (Anselm) và ĐGH Biển Đức XV, tôi vẫn cho đó là ý riêng của bạn ấy.Bằng cách nào chúng ta có thể nói rằng Thánh Lễ này là "mạnh hơn" (hiệu lực hơn) so với Thánh lễ kia?
Phụng vụ mừng lễ Các Thánh vào ngày đầu tháng 11, và ngày hôm sau, tưởng nhớ các người qua đời. Xét theo nguồn gốc lịch sử, lễ kính nào ra đời trước: việc kính nhớ các người qua đời có trước, hay lễ các thánh có trước? Linh mục Phan Tấn Thành trả lời. Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải phân biệt nhiều vấn đề. Việc kính nhớ các linh hồn qua đời là một chuyện, còn việc dành ra một ngày trong năm để tưởng nhớ tất cả các linh hồn là chuyện khác. Một cách tương tự như vậy, kính nhớ các thánh là một chuyện, còn dành ra một ngày để kính nhớ tất cả các thánh là một chuyện khác. Chúng ta sẽ cố gắng đi từng bước một: chúng ta hãy khởi hành với thực tại ngày nay, rồi chúng ta sẽ đi lùi ngược lại dòng lịch sử. Ngày nay lễ tưởng nhớ các người qua đời diễn ra vào ngày hôm sau lễ các thánh. Từ khi nào lịch phụng vụ ấn định việc cử hành hai ngày lễ đó?
Cùng với lời kinh cầu nguyện với Đức Mẹ đã được Đức Thánh Cha đọc trong video trong Thánh lễ do Đức Hồng y Giám quản Roma cử hành tại đền thánh Đức Mẹ Tình yêu Chúa ngày 11/03 vừa qua, Đức Thánh Cha đề nghị thêm một kinh nguyện để các tín hữu cầu nguyện vào cuối buổi đọc kinh Mân Côi, xin Đức Mẹ bảo vệ thế giới khỏi đại dịch. Hồng Thủy - Vatican
Đây là lời nguyện chính thức của Hội đồng Giám mục Việt Nam để cầu nguyện trong cơn dịch bệnh Covid-19. Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng chúng con đang họp nhau cầu nguyện, tha thiết nài xin cho cơn dịch bệnh mau chấm dứt. Lạy Chúa Cha giàu lòng thương xót xin nhìn đến nỗi thống khổ của đoàn con trên khắp thế giới, đặc biệt tại những nơi dịch bệnh đang hoành hành. Xin củng cố đức tin của chúng con, cho chúng con hoàn toàn tín thác vào tình yêu quan phòng của Cha. Lạy Chúa Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất, là vị lương y đầy quyền năng và lòng thương xót, xin thương cho các bệnh nhân sớm được chữa lành, và an ủi các gia đình đang gặp khó khăn thử thách. Xin cho lời chúng con khiêm tốn cầu nguyện, được chạm tới trái tim nhân lành của Chúa, xin giảm bớt gánh nặng khổ đau, và cho chúng con cảm nhận được bàn tay Chúa đang ân cần nâng đỡ chúng con.
Bảo Trợ