Các mức độ phê phán

10 Tháng Tư 20142:00 CH(Xem: 1474)

Lâu nay, ở trong nước, có nhiều người, kể cả đảng viên, có khi là những đảng viên cao cấp, lên tiếng phê phán chính quyền và được xem là những nhà phản biện hoặc những nhà tranh đấu cho dân chủ. Tuy nhiên, theo dõi kỹ những lời phát biểu của họ, chúng ta thấy là sự phê phán của họ, cho dù gay gắt đến mấy, cũng thuộc nhiều phạm vi và với những mức độ khác nhau. Các giải pháp được đề nghị để giải quyết vấn đề cũng khác nhau.
 
Thứ nhất, một số khá lớn chỉ dừng lại ở phạm vi chính sách. Theo họ, trong suốt mấy chục năm cầm quyền, đặc biệt từ sau năm 1954, ở miền Bắc và sau năm 1975, trong cả nước, đảng Cộng sản Việt Nam đã có một số chính sách không đúng và cũng không hoàn toàn có lợi. Được chú ý nhiều nhất là chính sách cải cách ruộng đất, gắn liền với các màn đấu tố khốc liệt ở miền Bắc; chính sách đàn áp và kềm kẹp văn nghệ sĩ, tiêu biểu nhất là qua vụ án Nhân Văn Giai Phẩm; chính sách liên quan đến cái gọi là vụ án chống xét lại châu tuần chung quanh cách đối xử với Võ Nguyên Giáp và một số cán bộ trí thức bị xem là thân Nga; chính sách đối với công chức và sĩ quan dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũng như những người được xem là tư sản mại bản ở miền Nam, v.v…
 
Ở phạm vi này, thái độ phê phán có thể được chia thành hai cấp độ khác nhau: Một, thẳng thắn cho các chính sách ấy vừa sai vừa xấu, vừa xuất phát từ tầm nhìn thiển cận vừa xuất phát từ những động cơ hẹp hòi, bảo thủ và giáo điều, thậm chí, nô lệ dưới ảnh hưởng và áp lực đến từ Trung Cộng. Hai, cho các chính sách tuy sai nhưng không hẳn xấu. Sai, chủ yếu vì những hạn chế trong nhận thức; nhưng không xấu vì chúng xuất phát từ nhiệt tình và thiện chí, dù là một cách ngây thơ, đối với đất nước và cách mạng.
 
Biện pháp để giải quyết các sai lầm trong chính sách khá đơn giản, hầu như được mọi người đề nghị giống nhau: đi sâu sát vào quần chúng, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng và lắng nghe ý kiến của quần chúng.
 
Thứ hai, tập trung sự phê phán vào một số cá nhân, chủ yếu là một số nhà lãnh đạo cao cấp nào đó. Bị phê phán nhiều nhất là Lê Duẩn, Trường Chinh và Lê Đức Thọ trước kia cũng như Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng sau này.
 
Ở đây, cũng có hai mức độ khác nhau. Một số người cho họ sai. Sai, chủ yếu vì tầm nhận thức, và gắn liền với tầm nhận thức ấy, là những hạn chế “khách quan” của lịch sử. Hai, cho những nhà lãnh đạo ấy vừa sai vừa xấu. Xấu, ở tâm địa bè phái hẹp hòi, ở tinh thần cá nhân chủ nghĩa, chỉ muốn củng cố quyền lực của mình và con cháu mình. Trong mọi trường hợp, ở đây người ta đều né tránh Hồ Chí Minh, có khi, còn muốn biện hộ cho Hồ Chí Minh khi cho rằng, từ đầu thập niên 1960 về sau, ông hoàn toàn bị cô lập và bị tước hầu như mọi quyền lực trong đảng: Mọi trách nhiệm đối với dân tộc trong suốt cuộc chiến tranh Nam Bắc đều thuộc về hai người: Lê Duẩn và Lê Đức Thọ.
 
Biện pháp đề nghị: Đảng cần cẩn thận trong khâu quản lý cán bộ, thực hiện nguyên tắc làm chủ tập thể, nâng cao trình độ học vấn của cán bộ (được phản ánh qua bằng cấp – dù là bằng giả!).
 
Thứ ba, quyết liệt hơn, một số người phê phán cả chế độ. Theo họ, các khuyết điểm của Việt Nam hiện nay đều có tính chất hệ thống, gắn liền với bản chất chế độ, do đó, muốn thay đổi, người ta phải thay đổi tận từ gốc rễ: phải dân chủ hóa.
 
Có điều, ở đây cũng lại có hai mức độ khác nhau: Một, cho chế độ và các cơ chế gắn liền với chế độ ấy đã lỗi thời. Khi nói vậy, người ta hàm ý: trước đây, ít nhất là thời chiến tranh chống Pháp để giành độc lập và chiến tranh Nam Bắc để thống nhất đất nước là đúng đắn và cần thiết. Hai, ít hơn, một số người cho chế độ xã hội chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh chọn lựa sau Cách mạng tháng Tám, ngay từ đầu và tự bản chất, đã sai: Nó có tính chất độc tài, cuồng tín và đầy bạo lực, lúc nào cũng chà đạp lên nhân quyền và khát vọng tự do, dân chủ của mọi người. Trong khi những người dừng lại ở mức độ đầu tiếp tục tôn thờ các lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những người thuộc mức độ sau đi xa hơn, đến mức độ thứ tư phía dưới.
 
Thứ tư, hiếm hơn, một số người cho tất cả cái sai của Việt Nam lâu nay, đặc biệt hiện nay, đều nằm ở ý thức hệ xã hội chủ nghĩa.
 
Ở đây, có đến ba mức độ phê phán. Một, cho chủ nghĩa xã hội là một lý tưởng đẹp và cao cả nhưng bị vận dụng sai, trước hết, ở Liên Xô và Trung Quốc; sau, đến các nước theo gương Liên Xô và Trung Quốc, trong đó, có Việt Nam. Hai, cho chủ nghĩa xã hội tuy chỉ là không tưởng, nhưng ít nhất, nó cũng có tác dụng tốt trong một giai đoạn lịch sử nhất định, lúc nhu cầu chống chủ nghĩa thực dân và giải phóng đất nước đang là những mục tiêu hàng đầu. Ba, cho chủ nghĩa xã hội không những sai về lý thuyết, không tưởng trong mục đích mà còn tàn bạo trong thực hành. Theo họ, chủ nghĩa Mác đã sai; chủ nghĩa Lenin lại càng sai; chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao không những sai mà còn ác. Nhân danh lý tưởng tự do và bình đẳng cho giai cấp vô sản, các chế độ xã hội chủ nghĩa trên khắp thế giới đều chỉ làm một công việc duy nhất là chà đạp lên ước vọng tự do và bình đẳng của mọi người để phục vụ cho những tham vọng ích kỷ của một số cá nhân lãnh đạo.
 
Ở phạm vi này, người ta không những khác nhau ở mức độ mà còn khác nhau về thời điểm thức tỉnh: Một số người chỉ nhận thức ra điều này kể từ khi chế độ cộng sản sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu; một số người khác, sớm hơn, đã thấy mầm mống của họa độc tài toàn trị ngay từ đầu, dù không phải lúc nào người ta cũng có cơ hội để lên tiếng một cách công khai.
 
Về biện pháp, cả hai nhóm thứ ba và thứ tư ở trên đều giống nhau ở một điểm: Việt Nam cần phải từ bỏ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và cần phải dân chủ hóa. Thế nhưng cách thức dân chủ hóa ở mỗi người một khác. Một số cho tiến trình dân chủ hóa ấy cần được thực hiện qua một cuộc cách mạng từ dưới lên trên, một cách nhanh chóng và triệt để. Ngược lại, một số khác lại cho nó chỉ có thể được thực hiện từ bên trong, một cách tiệm tiến, như một nỗ lực tự cải tổ, dưới sự lãnh đạo của một cá nhân nào đó trong giới cầm quyền hiện nay.
 
Như vậy, cũng là phê phán nhà cầm quyền, nhưng không phải ai cũng giống ai. Người ta khác nhau không phải chỉ ở phạm vi mà còn ở mức độ và đặc biệt, các biện pháp để thay đổi và cải thiện. Những khác biệt này, một mặt, khá dễ hiểu; mặt khác, lại làm suy yếu lực lượng phản biện. Một sự thống nhất về phương diện nhận thức, do đó, rất cần thiết. Tuy nhiên, sự thống nhất ấy chỉ có thể được hiện thực hóa bằng một biện pháp duy nhất: thảo luận.


* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Đài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ

blank

Nguyễn Hưng Quốc

Nhà phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về văn học Việt Nam.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Tốc độ tàu cao tốc 200-350 km/h trên toàn mạng lưới đường sắt cao tốc của Trung Quốc đã mang lại ấn tượng về sự phát triển đáng kinh ngạc trong vài thập kỷ qua. Tuy nhiên, mạng lưới đường sắt này không thành công như quảng cáo, nó đã trở thành ác mộng của nền kinh tế. Đáng tiếc là Trung Quốc đã kịp xuất khẩu ác mộng này sang Việt Nam 10 năm trước. Global Times đưa tin, mạng lưới đường sắt cao tốc của Trung Quốc có phạm vi khoảng 38.000 km và Bắc Kinh có kế hoạch sẽ mở rộng mạng lưới này lên quy mô 7 triệu km đến năm 2035. Năm 2008, chuyến tàu cao tốc đầu tiên đã xuất phát từ ga đường sắt Nam Bắc Kinh, ngày nay sau 13 năm, Trung Quốc đã thiết lập mạng lưới đường sắt cao tốc lớn nhất thế giới.
Cuộc diệt chủng của ĐCSTQ đối với Tây Tạng là lời cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta Trong bài phát biểu đánh dấu 70 năm ĐCSTQ tiến quân vào và kiểm soát Tây Tạng, dù ông Uông Dương đã hết lời ca ngợi những thành tựu huy hoàng của ĐCSTQ tại Tây Tạng, ông Anders Corr lại nhận thấy những bằng chứng hiển nhiên về tội ác diệt chủng và nỗi ám ảnh của ĐCSTQ đối với việc phải hủy diệt tín ngưỡng và tôn giáo. Ở bài bình luận này, tác giả Corr sẽ phân tích và chỉ rõ ra những dấu hiệu và bằng chứng về tội ác của ĐCSTQ, thông qua phát biểu của ông Uông Dương.
Thống đốc bang California (Mỹ) vừa ban hành đạo luật gây xôn xao dư luận: ‘Cho phép trẻ vị thành niên phẫu thuật chuyển đổi giới tính hoặc phá thai mà không cần thông báo cho phụ huynh’. Liệu đây là một đạo luật cấp tiến, tự do hay sẽ tiếp tay cho tội ác và sự suy đồi về đạo đức? Trẻ được phá thai hoặc chuyển giới mà không cần thông báo cho phụ huynh Ngày 22/9 vừa qua, Thống đốc bang California, ông Gavin Newsom đã ban hành hai đạo luật cho phép trẻ vị thành niên có thể thực hiện một số thủ tục y tế như phẫu thuật chuyển đổi giới tính và phá thai mà không cần thông báo với phụ huynh. Một trong hai điều luật là AB-1184, trong đó cấm các công ty bảo hiểm sức khỏe yêu cầu có sự ủy quyền của cha mẹ, trước khi những đứa trẻ bắt đầu làm thủ tục cho các dịch vụ y tế.
Trong bối cảnh chính phủ Afghanistan sụp đổ, người Mỹ và những người Afghanistan làm việc cho Hoa Kỳ buộc phải sơ tán, người ta không khỏi băn khoăn rằng: Liệu điều tương tự có thể xảy ra ở những quốc gia mà Mỹ đang bảo trợ? Và có tác động như thế nào đối với Đài Loan và các đồng minh khác của Mỹ ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương?
Gần đây, dư luận dậy sóng trước tuyên bố của một vị giáo sư rằng học phí cấp đại học nên được coi là rào cản kỹ thuật cho đầu vào. Tư tưởng học phí giống như một khoản đầu tư [ở một số ngành nghề] vốn là tư tưởng được chấp thuận ở các nước có nền giáo dục tiến bộ, nhưng áp dụng tại Việt Nam thì dường như chưa hợp lý lắm. Tăng, giảm hay miễn phí giáo dục? Phát biểu tại diễn đàn Quốc hội sáng 25/7 vừa qua, GS Lê Quân (đại biểu Cà Mau) nói: “Chúng ta cũng phải đảm bảo rằng học phí cũng là một rào cản kỹ thuật để tránh việc học sinh lao vào học đại học và trở thành "học đại"", phải coi học phí đối với người học là nguồn đầu tư, thông lệ quốc tế học phí bao giờ cũng bằng gần hai năm tiền lương sau khi tốt nghiệp.
Liệu các cuộc tấn công mạng do Bắc Kinh hậu thuẫn gần đây nhắm vào Mỹ có dẫn đến chiến tranh thật? Đây là câu hỏi mà nhà kinh tế học người Mỹ David P. Goldman đã đặt ra gần đây. Một câu hỏi quan trọng, hiện hữu và rất khó trả lời. Tuy nhiên, vào tháng trước, Tổng thống Joe Biden đã cảnh báo rằng các cuộc tấn công mạng gần đây, bao gồm việc tấn công mạng các cơ quan chính phủ và cơ sở hạ tầng của Hoa Kỳ, rất có thể dẫn đến một “cuộc chiến nổ súng”. Ông Biden tiếp tục: “Tôi nghĩ có nhiều khả năng chúng ta sẽ kết thúc — à, nếu chúng ta có kết cục là một cuộc chiến, một cuộc chiến tranh thực sự với một cường quốc, thì đó sẽ là hậu quả của một tấn công mạng với hậu quả rất lớn”, "cường quốc" đó, tất nhiên, là Trung Quốc. Như ông Goldman lưu ý: "Nận xét của ông Biden được đưa ra trong một văn bản do văn phòng báo chí Tòa Bạch Ốc lưu hành", chúng không phải là sản phẩm của “loạn ngôn tự phát”. Không, họ đã cố tình.
Bệnh dịch lây lan trên toàn quốc là một mối đe dọa tiềm tàng đối với ĐCSTQ. Hiện tại, Delta đang điều khiển nhiều xã hội trên khắp thế giới, nhưng Trung Quốc dường như là nước duy nhất mà biến thể này có thể kết thúc nhiệm kỳ của nhóm cầm quyền. COVID-19 đang tàn phá Trung Quốc Biến thể Delta đang lan nhanh trên khắp đại lục và Bắc Kinh không có giải pháp nào mới ngoài các biện pháp vũ lực tàn bạo, độc tài toàn trị — và đổ lỗi cho người nước ngoài. Hàng triệu người dân Trung Quốc hiện đang bị phong tỏa. Các ca nhiễm gần đây tạo thành đợt bùng phát coronavirus trên diện rộng, thậm chí còn rộng hơn so với đợt bùng phát vào năm ngoái. Đợt bùng phát mới này đã nhanh chóng vượt ra ngoài tầm kiểm soát của các nhà chức trách và phá vỡ kế hoạch tuyên truyền cốt lõi của Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).
Và nay nước Mỹ đang dần tiến vào một xã hội tự do cực tả, nơi xấu đã trở thành tốt và tốt đã trở thành xấu. Những điều tưởng chừng vô lý thì nay là hiện thực, ví như người nhập cư bất hợp pháp được ra vào tự do trên đất Mỹ, và được hưởng quyền “ưu đãi” hơn cả một công dân Mỹ “chính cống”... Khi những bậc lão thành vừa nhâm nhi cà phê vừa hồi tưởng lại quãng thời gian yên bình cách đây hơn nửa kỷ bằng câu mở đầu “muôn thuở”: “Hồi ấy, bố/mẹ ….”, thì bạn đừng than vãn: “Biết rồi, khổ lắm nói mãi”. Bởi nếu có cỗ máy thời gian cho phép bạn quay trở lại thời điểm cách nay hơn nửa thế kỷ, bạn có gật đầu không? Hơn nửa thế kỷ trước, sẽ không có Internet, không có smartphone, điện thì chập chờn và tất nhiên nếu nhà nào sở hữu một cái tivi đen trắng thì trở thành trung tâm "chiếu phim" cho cả cộng đồng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã dựa vào hàng loạt lời nói dối về kinh tế để làm lung lay nhận thức của nhiều người về tình hình hiện tại. Trong bài viết này, chúng tôi xem xét một số lời nói dối lớn nhất và đưa ra bức tranh thực sự đằng sau những lời nói dối đó.
Trong 4 năm nhiệm kỳ của Tổng thống Trump, Big Media đã chế tạo ra bao nhiêu lời dối trá để bủa vây ông? Đã có bao nhiêu thông tin bị lật tẩy giúp công chúng được giải khai sự thật? Mời quý độc giả cùng NTD Việt Nam điểm lại 8 lời dối trá nổi bật nhất về ông Trump của Big Media, trong lúc chờ đợi các thông tin cập nhật từ các cuộc thanh tra kết quả bầu cử tại các tiểu bang Arizona và Georgia. Trong suốt 4 năm dẫn dắt nước Mỹ, cựu Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã đạt được rất nhiều thành tựu. Trong nước, ông Trump không chỉ lấp đầy nền sản xuất rỗng sau nhiều thập kỷ hoang phế, mang lại việc làm và sức tăng trưởng bền hơn cho nền kinh tế, ông còn khôi phục các giá trị truyền thống đang bị bào mòn, xâm lấn triệt để bởi tư tưởng cấp tiến như bảo vệ thai nhi.
Bảo Trợ